Ung thư vú thể tủy là một loại ung thư vú hiếm gặp.
Ung thư vú thể tủy có thể xảy ra ở bất cứ độ tuổi nào nhưng thường gặp ở phụ nữ trẻ hơn. Ung thư vú thể tủy cũng hay gặp ở những phụ nữ trẻ có di truyền đột biến gene BRCA1.
Bệnh cũng có thể xảy ra ở nam giới nhưng rất hiếm gặp.
Ung thư vú thể tủy (Thỉnh thoảng được gọi là ung thư biểu mô với đặc điểm thể tủy) có thể bao gồm các phân nhóm:
- Ung thư vú thể tủy kinh điển – khi tất cả các đặc tính của ung thư vú thể tủy có thể quan sát thấy dưới kính hiển vi.
- Ung thư vú thể tủy không điển hình – khi một số nhưng không phải tất cả các đặc điểm của ung thư vú thể hủy được nhìn thấy dưới kính hiển vi.
- Ung thư biểu mô tuyến ống xâm nhập (thường được gọi là ‘loại không đặc hiệu’ hoặc NST) cũng có thể có một số hoặc tất cả các đặc tính của ung thư vú thể tủy.
Ung thư vú thể tủy là một loại ung thư xâm nhập, có nghĩa là nó có khả năng phát triển lan rộng đến các phần khác của cơ thể, mặc dù vậy, ung thư vú thể tủy kinh điển thường ít di căn xa hơn. Mặc dù mỗi trường hợp mắc bệnh có tiên lượng khác nhau, nhưng về tổng thể, tiên lượng của ung thư vú thể tủy kinh điển thường là tốt. Mặc dù vậy, không phải trường hợp ung thư vú thể tủy nào cũng như vậy.
Ung thư vú thể tủy được điều trị giống như những ung thư vú xâm nhập khác.
Để đưa ra được chẩn đoán ung thư vú thể tủy, bệnh nhân thường được trải qua một số các xét nghiệm sau:
+ Chụp nhũ ảnh (X quang tuyến vú)
+ Siêu âm tuyến vú và hạch nách – (Sử dụng sóng siêu âm tần số cao để đưa ra hình ảnh trong cơ thể)
+ Sinh thiết kim tuyến vú hoặc hạch – (Sử dụng một kim lớn để lấy mẫu mô vú xét nghiệm dưới kính hiển vi)
+ Chọc hút tế bào kim nhỏ (FNA) vú hoặc hạch nách – sử dụng một kim nhỏ hoặc xi lanh nhỏ để lấy một vài tế vào tuyến vú quan sát dưới kính hiển vi
Cũng giống như tất cả các loại ung thư vú khác, những đặc điểm của mỗi cá thể khác nhau mặc dù cùng mắc ung thư vú thể tủy nhưng sẽ có cách điều trị khác nhau.
Phẫu thuật thường là phương pháp điều trị đầu tay dành cho ung thư vú thể tủy.
Có 2 loại phẫu thuật chính dành cho ung thư vú thể tủy đó là:
- Phẫu thuật bảo tồn vú
- Phẫu thuật cắt tuyến vú toàn bộ
Loại phẫu thuật được bác sĩ tư vấn cho bệnh nhân sẽ phụ thuộc vào vị trí khối u, tương quan kích thước u và kích thước vú và số lượng u. Các chi tiết này đều được bác sĩ phẫu thuật trao đổi kĩ với bệnh nhân giúp bệnh nhân đưa ra quyết định trước khi bắt đầu vào điều trị thực sự.
Trong một vài trường hợp nếu như diện cắt của mô vú bên cạnh khối u vẫn còn tổ chức ung thư sau phẫu thuật lần thứ nhất, bệnh nhân có thể cần được phẫu thuật lần thứ hai. Phẫu thuật lần này để đảm bảo rằng tất cả khối u đã được lấy gọn. Trong một vài trường hợp, phẫu thuật thứ hai này sẽ là phẫu thuật cắt toàn bộ tuyến vú.
Trong trường hợp cắt toàn bộ tuyến vú, bệnh nhân sẽ được bác sĩ khuyên làm phẫu thuật tái tạo vú. Phẫu thuật này có thể được thực hiện cùng lúc với phẫu thuật cắt tuyến vú (tạo hình 1 thì) hoặc một vài tháng hoặc vài năm sau (tạo hình trì hoãn)
Cũng có những bệnh nhân nữ quyết định rằng sẽ không phẫu thuật tái tạo vú hoặc không đủ điều kiện để phẫu thuật tái tạo tuyến vú. Nếu bệnh nhân đã cắt hết toàn bộ tuyến vú mà không tạo hình, bệnh nhân có thể lựa chọn sử dụng túi độn ngoài đặt trong áo lót. Cũng có một số bệnh nhân không tạo hình hoặc đeo túi độn.
Ung thư vú thể tủy thường ít khi di căn đến hạch nách hơn các loại ung thư khác. Mặc dù vậy, đội ngũ y bác sĩ vẫn có thể sẽ kiểm tra xem có bất cứ hạch nách nào có thể nghi ngờ có thể có tế bào ung thư. Cùng với tình trạng về khối u vú, tình trạng hạch nách cũng là một trong các yếu tố quyết định xem bệnh nhân có nên được điều trị bổ trợ sau phẫu thuật hay không.
Để thực hiện được điều này, phẫu thuật viên thường khuyên bệnh nhân có thể thực hiện phẫu thuật sinh thiết hạch cửa (Lấy hoặc sinh thiết một vài hạch gác) hoặc lấy toàn bộ hạch nách cho bệnh nhân. (Phẫu thuật vét hạch triệt căn).
Sinh thiết hạch gác được áp dụng rộng rãi trong những trường hợp những xét nghiệm trước phẫu thuật của bệnh nhân cho thấy rằng không có hạch nách nào có tế bào ung thư. Quá trình sinh thiết hạch gác là quá trình xác định xem hạch gác (hay hạch cửa – hạch đầu tiên tế bào ung thư lan đến) có tế bào ung thư chưa? Thường thì có hơn một hạch gác đối với mỗi trường hợp. Hạch gác được sinh thiết tức thì trong cuộc mổ – nếu hạch gác âm tính có nghĩa là các hạch khác cũng chưa bị di căn và bệnh nhân không cần phải nạo vét thêm hạch nào nữa. Thường thì sinh thiết hạch gác được diễn ra cùng lúc với phẫu thuật cắt tuyến vú, nhưng cũng có lúc sinh thiết hạch gác được diễn ra trước phẫu thuật.
Nếu như kết quả hạch gác đã bị di căn, phẫu thuật hoặc xạ trị những hạch nách còn lại là cần thiết.
Trong trường hợp các xét nghiệm trước đó đã cho kết quả nghi ngờ hạch nách của bệnh nhân đã di căn. Bệnh nhân sẽ được bác sĩ khuyên phẫu thuật nạo vét hạch nách triệt căn
Sau khi phẫu thuật, bệnh nhân thường được điều trị thêm bằng các phương pháp khác. Các phương pháp này thường được gọi là điều trị bổ trợ và có thể bao gồm:
- Hóa trị
- Xạ trị
- Nghiệm pháp Hormone
- Nghiệm pháp điều trị đích
- Thuốc chống loãng xương bisphosphonates
Mục đích của những phương pháp điều trị này là để giảm nguy cơ ung thư vú tái phát tại chỗ hoặc đối bên, hoặc di căn đến các cơ quan khác.
Một số các phương pháp điều trị này có thể sẽ được sử dụng trước phẫu thuật. Khi đó phương pháp điều trị này sẽ được gọi là điều trị tân bổ trợ hoặc điều trị bước một.
Hóa trị là phương pháp sử dụng các chất chống ung thư (hay còn gọi là thuốc độc tế bào) dùng để tiêu diệt các tế bào ung thư. Hóa trị còn được gọi là điều trị toàn thân hoặc điều trị hệ thống.
Sử dụng phác đồ hóa trị nào sẽ được quyết định dựa trên đặc điểm của mỗi loại ung thư riêng biệt, ví dụ như kích thước, độ ác tính (tế bào ung thư phát triển nhanh thế nào và chúng giống hay khác tế bào tuyến vú bình thường) và hạch nách có di căn hay không? Lựa chọn phác đồ còn dựa trên tình trạng receptor oestrogen và tình trạng HER-2 của bệnh nhân.
Xạ trị là phương pháp sử dụng tia X năng lượng cao để tiêu diệt tế bào ung thư. Nếu như bệnh nhân được phẫu thuật bảo tồn tuyến vú, bác sĩ thường sẽ chỉ định xạ trị diện vú để giảm thiểu nguy cơ tái phát tại chỗ. Thỉnh thoảng, bệnh nhân cũng sẽ được tiếp nhận xạ trị tại hố nách.
Xạ trị thành ngực (khác với xạ diện vú) cũng được chỉ định với một số trường hợp sau khi phẫu thuật cắt bỏ hoàn toàn tuyến vú, nhất là khi có hạch nách di căn.
Một số ung thư vú bị kích thích bởi hormone oestrogen. Có nghĩa là hormone oestrogen bình thường trong cơ thể phụ nữ có thể là tác nhân giúp tế bào ung thư phát triển. Vì vậy có một số các phương pháp điều trị hormone giúp ngăn chặn quá trình này.
Nghiệm pháp hormone chỉ được chỉ định với những bệnh nhân có khối u có chứa bộ phận tiếp nhận thông tin thụ cảm thể (receptor) tương ứng với hormone oestrogen, được gọi là có thụ cảm thể với oestrogen dương tính hay ung thư vú có ER(+)
Khi một khối u của ung thư vú xâm lấn được xét nghiệm thụ cảm thể hormone bằng sinh thiết kim hoặc phẫu thuật, nếu khối u có ER(+) có nghĩa là oestrogen có thể khiến khối u phát triển mạnh hơn.
Nếu như khối u không có thụ cảm thể với oestrogen không được tìm thấy, loại ung thư vú này được gọi là không có thụ cảm thể với oestrogen hay còn gọi là ER(-). Ung thư vú thể tủy thường là loại ER(-) này
Ngoài ra, đối với ung thư vú người ta còn xét nghiệm thụ cảm thể hormone progesterone.
Biện pháp hormone ít có tác dụng rõ ràng với bệnh nhân có PR(+) và ER(-). Chỉ có một số ít ung thư vú là thuộc phân loại này. Nếu bệnh nhân thuộc vào phân nhóm này, các chuyên gia sẽ trao đổi kĩ với bệnh nhân xem có nên điều trị hormone hay không.
Ung thư vú thể tủy thường có PR(-), tức là không có thụ cảm thể hormone progesterone.
Nếu như cả hai loại thụ cảm thể hormone này đều âm tính thì nghiệm pháp hormone sẽ không có tác dụng với bệnh nhân này.
Đây là một nhóm thuốc ngăn chặn khả năng phát triển và lan rộng của ung thư. Chúng xác định và can thiệp vào quá trình tế bào ung thư phát triển.
Một trong các loại thuốc đích được sử dụng khá rộng rãi là trastuzumab. Chỉ có bệnh nhân có mức độ HER-2 bộc lộ quá mức (Hay còn gọi là Her-2 dương tính) sẽ đáp ứng khi điều trị với trastuzumab. Her-2 là một loại protein giúp tế bào ung thư phát triển.
Sau khi mô vú được lấy ra khỏi cơ thể bệnh nhân bằng cách sinh thiết kim hoặc phẫu thuật, nồng độ Her-2 của khối u sẽ được định lượng. Nếu khối u bệnh nhân có Her -2 âm tính, thì trastuzumab và các nghiệm pháp đích khác cho bệnh nhân sẽ không có bất cứ lợi ích nào.
Ung thư vú thể tủy thường có Her-2 âm tính
Bisphosphonates là một nhóm thuốc có thể giảm thiểu nguy cơ ung thư vú lây lan ở bệnh nhân đã mãn kinh. Loại thuốc này có thể được sử dụng kể cả khi bệnh nhân mãn kinh tự nhiên hay bệnh nhân mãn kinh do các điều trị của ung thư vú.
Bisphosphonates cũng giúp làm chậm quá trình tổn thương xương. Các bệnh nhân có triệu chứng loãng xương (Xương trở nên yếu đi và dễ gãy) cũng thường được kê sử dụng loại thuốc này.
Bisphosphonates có thể được kê dưới dạng uống hoặc tiêm.
Bác sĩ sẽ trao đổi với bệnh nhân xem thuốc xương Bisphosphonates có tác dụng với bệnh nhân không?
Khi mà một bệnh nhân ung thư vú có cả thụ cảm thể hormone âm tính ER(-), PR(-) và Her2(-) thì loại ung thư vú này được gọi là ung thư vú TAM ÂM. Ung thư vú TAM ÂM khá hay gặp ở ung thư vú thể tủy. Khi bệnh nhân mắc ung thư vú TAM ÂM, bệnh nhân có thể không điều trị được thuốc đích hoặc nghiệm pháp hormone. Tuy vậy, bệnh nhân mắc ung thư vú thể tủy TAM ÂM có tiên lượng tốt hơn các loại ung thư vú TAM ÂM khác.