Ung thư vú thể dị sản (còn được gọi là ung thư biểu mô tuyến vú thể dị sản) là một dạng hiếm gặp của ung thư vú, chiếm khoảng 1% trong tổng số ung thư vú nói chung.
Ung thư vú thể dị sản là ung thư xâm lấn, tức là nó có tiềm năng di căn tới các vị trí khác của cơ thể.
Ung thư vú thể dị sản được chẩn đoán bởi bác sỹ chuyên khoa Giải Phẫu Bệnh thông qua việc quan sát sự biến đổi hình thái tế bào và cấu trúc u vú dưới kính hiển vi.
Giống như các thể khác của ung thư vú nói chung, các triệu chứng của ung thư vú thể dị sản tùy thuộc vào giai đoạn, có thể là:
- Thay đổi kích thước vú
- Nổi cục hoặc một vùng da bị “dày” hơn so với xung quanh
- Đau vú
- Thay đổi núm vú, chảy dịch đầu vú
- Da vú bị nhăn, sần hoặc lõm xuống.
Các bất thường kể trên có thể được phát hiện bởi bác sỹ qua khám bệnh, hoặc do bạn tự phát hiện ra qua việc tự khám vú tại nhà. Một số trường hợp được phát hiện tình cờ qua khám sàng lọc mà không có bất kì biểu hiện nào kể trên.
Bên cạnh việc thăm khám, để chẩn đoán ung thư vú nói chung cũng như ung thư vú thể ống xâm nhập nói riêng, bác sỹ sẽ cần phải kết hợp các phương pháp xét nghiệm khác, bao gồm:
- Chụp X-quang vú (mammography)
- Siêu âm tuyến vú
- Chọc hút kim nhỏ (FNA) khối u hoặc hạch nghi ngờ (sử dụng kim và xi-lanh để lấy tế bào từ u và/hoặc hạch nghi ngờ, và quan sát dưới kính hiển vi để phát hiện tế bào ung thư nếu có).
- Sinh thiết kim: Sử dụng một kim lớn hơn để lấy một mẫu tổ chức u hoặc hạch rồi quan sát dưới kính hiển vi. Sinh thiết bằng kim lớn không những phát hiện tế bào ung thư mà còn thấy được sự xâm lấn của tế bào ung thư ra xung quanh.
Điều trị ung thư vú là điều trị đa mô thức, tức là phối hợp nhiều phương pháp khác nhau, bao gồm phẫu thuật, xạ trị và điều trị bằng thuốc (nội khoa). Tùy thuộc vào giai đoạn, đặc điểm sinh học của khối u (độ mô học, tình trạng thụ thể nội tiết, thụ thể HER2, …) mà bác sỹ sẽ đưa ra phương pháp điều trị ưu tiên cho từng thời điểm, trong đó phẫu thuật là điều trị cơ bản khi bệnh ở giai đoạn chưa di căn xa.
Ung thư vú thể dị sản hay gặp có “bộ ba âm tính” (cả ba xét nghiệm ER, PR, HER2 đều âm tính), đây là tình trạng báo hiệu có tiên lượng xấu.
Các phương pháp điều trị phẫu thuật triệt căn với ung thư vú gồm 2 nhóm:
- Phẫu thuật bảo tồn tuyến vú (breast-conserving surgery): Cắt bỏ rộng khối u kèm theo vét hạch nách, phần tuyến vú lành vẫn được bảo tồn. Phẫu thuật bảo tồn cần đảm bảo diện cắt không còn tế bào ung thư.
- Phẫu thuật cắt tuyến vú: Cắt bỏ toàn bộ tuyến vú, bao gồm cả quầng vú và núm vú.
Việc lựa chọn loại phẫu thuật phù hợp với từng người bệnh phụ thuộc vào nhiều yếu tố, trong đó yếu tố liên quan trực tiếp tới khối u bao gồm: Vị trí khối u, kích thước khối u, có hay không nhiều hơn 2 u ở các phần tư khác nhau của vú. Bác sỹ phẫu thuật sẽ trao đổi với bạn trước khi phẫu thuật để đưa ra phương pháp phẫu thuật phù hợp nhất với bạn.
Nếu bạn được phẫu thuật bảo tồn vú, thì việc đảm bảo lấy hết tổ chức ung thư (diện cắt không còn tế bào ung thư) là rất quan trọng. Nếu sau mổ mà diện cắt vẫn còn tế bào ung thư thì đôi khi vấn đề phẫu thuật lần 2 cũng cần được đặt ra.
Nếu bạn lựa chọn phẫu thuật cắt toàn bộ tuyến vú, để đảm bảo tính thẩm mỹ, bác sỹ có thể đề xuất với bạn về phẫu thuật tạo hình lại tuyến vú sau khi đã bỏ toàn bộ vú. Có nhiều phương pháp tạo hình vú khác nhau và có thể được tiến hành ngay sau khi cắt toàn bộ tuyến vú trong cùng một lần mổ hoặc sau một vài tháng, thậm chí là vài năm.
Ung thư vú thể dị sản có tỉ lệ di căn tới hạch nách cao hơn so với các thể khác. Tuy vậy không có nghĩa là sẽ tiến hành vét hạch nách một các thường quy mà sẽ cần xác định xem đã có di căn hạch nách hay chưa qua thăm khám, siêu âm kết hợp với chọc hút tế bào bằng kim nhỏ.
Nếu có di căn hạch nách, phẫu thuật triệt để sẽ cần phải vét hạch nách thường quy và sau mổ sẽ cần điều trị bổ trợ. Nếu chưa xác định được di căn hạch nách hoặc ngờ, bạn có thể cần phải được thực hiện kỹ thuật sinh thiết hạch cửa. Hạch cửa (hạch gác) là hạch đầu tiên mà tế bào ung thư có khả năng di căn tới.
Bằng kĩ thuật tiêm thuốc nhuộm màu hoặc chất phóng xạ đánh dấu, hạch cửa sẽ được “hiển thị” một cách rõ ràng khi phẫu tích, sau đó sẽ được lấy mà mang đi xét nghiệm dưới kính hiển vi. Nếu hạch cửa có tế bào ung thư thì phẫu thuật vét hạch nách sẽ được tiến hành; nếu hạch cửa không có tế bào ung thư thì có thể không cần vét hạch nách một cách thường quy.
Điều trị bổ trợ là các phương pháp điều trị được áp dụng sau phẫu thuật triệt để, bao gồm:
- Hóa trị
- Xạ trị
- Điều trị hooc-môn
- Điều trị đích
- Dùng biphosphonat
Mục đích của điều trị bổ trợ là nhằm tiêu diệt tết bào ung thư còn “còn lại” sau phẫu thuật, từ đó giúp giảm tỉ lệ tái phát và di căn về sau. Việc áp dụng một hay phối hợp nhiều phương pháp điều trị bổ trợ phụ thuộc vào nhiều yếu tố như giai đoạn bệnh, đặc điểm sinh học của khối u,…
Một số trường hợp các phương pháp trên lại được sử dụng trước khi phẫu thuật triệt để và được gọi là điều trị tân bổ trợ.
Hóa trị là phương pháp điều trị nhằm tiêu diệt tế bào ung thư thông qua việc sử dụng các thuốc gây độc tế bào. Chỉ định hóa trị phụ thuộc vào nhiều yếu tố như: kích thước khối u, độ ác tính của tế bào, tình trạng di căn hạch nách, đặc điểm sinh học.
Xạ trị là phương pháp dùng tia X có năng lượng cao để tiêu diệt tế bào ung thư. Xạ trị thường được chỉ định sau phẫu thuật bảo tồn tuyến vú, sau phẫu thuật cắt tuyến vú với khối u có kích thước lớn và/hoặc có di căn hạch nách.
Một số loại ung thư vú được kích thích phát triển nhờ hooc-môn estrogen, những loại ung thư này khi làm xét nghiệm sẽ có thụ thể của estrogen dương tính (ER+). Điều trị nội tiết là biện pháp sử dụng các thuốc có tác động lên thụ thể của hooc-môn estrogen nhằm ngăn cản hooc-môn estrogen “tiếp xúc” với tế bào ung thư vú, từ đó ngăn chặn tế bào ung thư phát triển. Có nhiều biện pháp điều trị nội tiết khác nhau, lực chọn phương pháp nào phụ thuộc vào nhiều yếu tố: tuổi, tình trạng kinh nguyệt, …
Điều trị đích là biện pháp dùng các thuốc có tác dụng ức chế sự tăng sinh của tế bào ung thư bằng cách tác động vào các khâu trong quá trình truyền tín hiệu bên trong tế bào ung thư. Hiện nay có nhiều thuốc điều trị đích khác nhau, trong đó trastuzumab được được sử dụng nhiều nhất và chỉ định cho những trường hợp có thụ thể HER2 dương tính.
Xét nghiệm HER2 được thực hiện trên mẫu bệnh phẩm sinh thiết hoặc sau phẫu thuật. Để có thông tin và được tư vấn thêm về tình trạng thụ thể HER2, bạn có thể trao đổi thêm với bác sỹ điều trị.
Biphosphonat là một nhóm thuốc có tác dụng làm chậm hoặc giảm nguy cơ loãng xương trên người bệnh ung thư vú sau mãn kinh (mãn kinh tự nhiên hoặc sau điều trị nội tiết), đồng thời làm giảm nguy cơ gãy xương trên những người bị ung thư vú di căn xương.
Sau khi kết thúc điều trị đặc hiệu tại bệnh viện bằng phẫu thuật, xạ trị, hóa chất, … bạn vẫn cần được được theo dõi định kì để phát hiện sớm tình trạng bệnh tái phát di căn.
Nếu bạn được phẫu thuật bảo tổn tuyến vú, việc theo dõi định kỳ cần chụp X-quang vú 2 bên một cách thường quy, còn nếu phẫu thuật cắt tuyến vú thì chụp X-quang đối với vú còn lại.
Bên cạnh đó, bạn cũng cần lưu ý về bất kỳ những thay đổi bất thường nào trên da vùng phẫu thuật, hoặc lân cận nhằm phát hiện sớm hiện tượng tái phát di căn, đồng thời thông báo cho bác sỹ hoặc y tá chăm sóc về những khó chịu bạn gặp phải do tác dụng không mong muốn của phẫu thuật và/hoặc xạ trị để được tư vấn và xử trí kịp thời.
Khi bạn bị ung thư vú, nguy cơ bị ung thư vú bên còn lại sẽ cao hơn so với người không bị ung thư vú, do vậy cần lưu ý tự khám vú thường xuyên và lưu về những thay đổi bất thường trên vú còn lại.
Bị chẩn đoán mắc ung thư vú sẽ là một khó khăn và đầy thử thách với bạn, có thể có những lúc bạn cảm thấy cô đơn và tách rời với thế giới quanh bạn. Có rất nhiều người có thể giúp đỡ bạn, do vậy đừng ngần ngại chia sẻ những khó khăn bạn đang gặp phải với người thân và đội ngũ chăm sóc sức khỏe. Nếu bạn cần hỗ trợ tâm lý nhiều hơn từ chuyên gia, hãy thông báo với y tá chăm sóc hoặc bác sỹ điều trị để có thể nhận được hỗ trợ từ bác sỹ tâm lý.