Ung thư cổ tử cung là một trong những bệnh ung thư gây tử vong cao ở nữ giới. Theo thống kê của WHO, mỗi năm trên thế giới có khoảng 500.000 ca mắc ung thư cổ tử cung mới, 250.000 trường hợp tử vong do bệnh này. Trung bình cứ 2 phút lại có một phụ nữ tử vong do ung thư cổ tử cung. Chỉ tính riêng ở Việt Nam, 5.100 phụ nữ mắc ung thư cổ tử cung mỗi năm, hơn 2000 trường hợp tử vong.
Ung thư cổ tử cung bắt đầu khi một khối u ác tính hình thành trong các mô của cổ tử cung. Sự phát triển bất thường của các tế bào ở niêm mạch tử cung chính là nguyên nhân gây ra căn bệnh này.
Những phụ nữ trong độ tuổi từ 30-50 tuổi, người đã sinh đẻ từ 4 lần trở lên, có tiền sử mắc các bệnh viêm nhiễm đường tình dục do virus papilloma hoặc harpes là những người có khả năng cao bị ung thư cổ tử cung.
Ung thư cổ tử cung gồm 4 giai đoạn, mỗi giai đoạn bệnh tình lại có những tiến triển khác nhau. Và khi bệnh phát triển đến giai đoạn ung thư cổ tử cung di căn đồng nghĩa khả năng chữa khỏi hoàn toàn là rất thấp. Cụ thể:
- Giai đoạn 0: Đây là giai đoạn sớm nhất. Ở giai đoạn này, các tế bào ung thư chưa phát tác, kích thước các khối u còn nhỏ, và những triệu chứng bệnh chưa rõ rệt.
- Giai đoạn 1: Bệnh phát triển đến giai đoạn 1 khi các khối u ác tính đã bắt đầu có sự tăng trưởng về kích thước và mức độ lây lan. Trong giai đoạn 1A, khu vực tổn thương không sâu quá 3mm, và rộng không quá 7mm. Sang đến giai đoạn 1B, khu vực tổn thương trở nên rộng hơn. Cụ thể, rộng không quá 7mm và sâu không quá 5mm.
- Giai đoạn 2: Khi ung thư cổ tử cung chuyển sang giai đoạn 2 tức là các tế bào đã xâm lấn tới âm đạo, kích thước khối u khoảng 4cm.
- Giai đoạn 3: Đây là giai đoạn muộn của ung thư cổ tử cung. Ở giai đoạn này, các tế bào ác tính phát triển và lây lan rầm rộ đến khu vực xung quanh cổ tử cung, xâm lấn 1/3 vùng dưới âm đạo.
- Giai đoạn 4: Khi ung thư cổ tử cung tới giai đoạn này đồng nghĩa với việc bệnh đã trở nên nghiêm trọng. Giai đoạn 4 cũng chính là giai đoạn ung thư cổ tử cung di căn. Sự phát triển của các tế bào ung thư dần hủy hoại hệ miễn dịch và sức đề kháng của cơ thể. Bệnh tình trở nên trầm trọng và tiên lượng thời gian sống của bệnh nhân ở giai đoạn này là ngắn nhất.
Ở giai đoạn 0 và 1, các tế bào ung thư cổ tử cung chỉ phát triển trong phạm vi các mô tại tử cung và chưa xâm lấn sang các cơ quan lân cận. Thông thường, ung thư cổ tử cung di căn ở cuối giai đoạn 2.
Sang tới giai đoạn 3, khung vùng chậu và thận bị ảnh hưởng, kích thước khối u tăng trưởng chặn các niệu quản khiến thận bị phình to và có nguy cơ ngừng làm việc, gây nguy hại cho sức khỏe. Đến giai đoạn 4, ung thư cổ tử cung di căn mạnh mẽ. Các tế bào ung thư đã lan tới các bộ phận khác như xương, phổi, gan, não, hạch bạch huyết,...
Nếu ở giai đoạn đầu và giai đoạn 1, tế bào ung thư cổ tử cung chỉ phát triển trong phạm vi các mô tại cổ tử cung mà chưa xâm lấn sang các cơ quan lân cận, thì khi khối u ác tính di căn nghĩa là bệnh đã ở giai đoạn nặng.
Trong trường hợp ung thư cổ tử cung di căn, các tế bào ung thư có xâm lấn sang các cơ quan khác và làm rối loạn hoạt động của các cơ quan đó. Đến giai đoạn ung thư cổ tử cung di căn tỷ lệ sống sau 5 năm chỉ đạt ở mức 13% - 15%.
Việc xác định phương pháp điều trị cần phải dựa vào sự thăm khám, thể trạng của người bệnh và mức độ bệnh mà các bác sĩ sẽ chỉ định phương pháp phù hợp. Hiện nay, có 3 phương pháp điều trị được áp dụng cho bệnh nhân ung thư cổ tử cung gồm: phẫu thuật, hóa trị và xạ trị.
Phương pháp phẫu thuật được sử dụng khi bệnh nhân đang ở giai đoạn đầu. Còn khi tới giai đoạn ung thư cổ tử cung di căn thì cần được cân nhắc. Bởi phương pháp này có thể khiến các tế bào ung thư cổ tử cung di căn nhanh hơn.
Khi đó, phương pháp hóa trị và xạ trị sẽ là những phương pháp phù hợp hơn cả. Tuy nhiên, 2 phương pháp này có thể gây ra những tác dụng phụ cho người bệnh.
Cụ thể là, với phương pháp hoá trị sẽ gây ra tình trạng nôn ói, mệt mỏi, rụng tóc, .... Và xuất hiện tình trạng thiếu máu, biến chứng ở não, khô miệng, hệ tiêu hóa bị ảnh hưởng, tổn thương trên da, ... với phương pháp xạ trị.