Ung thư cổ tử cung di căn não: dấu hiệu, điều trị và tiên lượng sống

Tham vấn chuyên môn: - Khoa Ngoại Tổng hợp
Ung thư cổ tử cung di căn não: dấu hiệu, điều trị và tiên lượng sống
Khi ung thư cổ tử cung di căn sang các bộ phận khác như não cũng đồng nghĩa tình trạng bệnh đã trở nên rất nghiêm trọng. Vậy những triệu chứng ung thư cổ tử cung di căn não là gì? Có thể điều trị không? Và khả năng sống sót của người bệnh là bao nhiêu?

1. Ung thư cổ tử cung di căn não là gì?

Khi ung thư cổ tử cung di căn não hay những bộ phận khác của cơ thể như trực tràng, phổi, gan,... đồng nghĩa với ung thư cổ tử cung đã sang giai đoạn cuối cùng - giai đoạn cực kỳ nguy hiểm. Vào giai đoạn này, tiên lượng sống của bệnh nhân còn rất thấp. Các phương pháp điều trị lúc này chỉ có ý nghĩa kéo dài thời gian sống cho người bệnh, cơ hội điều trị khỏi bệnh hoàn toàn gần như bằng không.

Ở giai đoạn cuối của bệnh, các bệnh nhân, hầu hết, đều phải chịu những cơn đau hành hạ do khối u không ngừng phát triển và chèn ép các bộ phận khác của cơ thể. Từ đó dẫn tới tình trạng cơ thể bị suy nhược, mất ngủ, và tử vong.

Trong giai đoạn ung thư cổ tử cung giai đoạn cuối, nếu tế bào ung thư phát triển quá nhanh và không thể kiểm soát được có thể gây những ảnh hưởng vô cùng nghiêm trọng. Chẳng hạn như, di căn đến phổi có thể gây tràn dịch màng phổi; di căn tới xương có thể khiến đau xương, gãy xương; di căn lên não có thể gây ra hiện tượng đau đầu, chóng mặt,....

2. Các triệu chứng của ung thư cổ tử cung di căn não

Ung thư cổ tử cung di căn não là một trong những biến chứng cực kỳ nguy hiểm của ung thư cổ tử cung giai đoạn cuối. Khi đó, các khối u sẽ phá huỷ dần não bộ và gây ra các hiện tượng như nhiễm trùng, chèn ép các dây thần kinh với các biểu hiện cụ thể như sau:

- Hiện tượng động kinh: Đây là dấu hiệu đầu tiên khi tế bào ung thư cổ tử cung di căn não với những cơn động kinh xuất hiện liên tục gây nguy hiểm cho người bệnh.

- Thần kinh suy nhược: Rối loạn chức năng nói, thị lực giảm sút, chóng mặt, hoa mắt, nôn mửa, tinh thần không còn minh mẫn là những dấu hiệu của ung thư cổ tử cung di căn não.

- Suy nhược cơ thể: Khi bị tế bào ung thư cổ tử cung di căn não, người bệnh sẽ cảm thấy mệt mỏi, đi lại và vận động sẽ trở nên khó khăn, giảm sút và gần như không thể hạt động đươc như bình thường.

- Nhức đầu: Các cơn đau đầu thường xuyên xuất hiện vào buổi sáng và xuất hiện ngày một nhiều  hơn, dữ dội hơn.

- Thay đổi tâm lý: Do bị tế bào ung thư chèn ép não nên người bệnh cảm thấy mệt mỏi, đau đớn. Từ đó dẫn tới hay cáu gắt, nổi nóng, thậm chí có thể thay đổi hành vi, nhận thức và mất trí nhớ.

3. Ung thư cổ tử cung di căn não có chữa được không?

Do khi các tế bào ung thư cổ tử cung di căn não đã là giai đoạn cuối của bệnh nên khả năng bệnh nhân sống sót sau 5 năm rất thấp chỉ khoảng 12-15%, cơ hội điều trị khỏi rất mong manh và gần như bằng không. Mọi phương pháp điều trị lúc này chỉ có ý nghĩa giúp bệnh nhân giảm đau đớn, và kéo dài thêm thời gian sống cho người bệnh.

Hiện nay, bệnh ung thư cổ tử cung có thể áp dụng nhiều phương pháp chữa trị. Tuy nhiên, hiệu quả điều trị đến đâu còn phụ thuộc vào thời điểm người bệnh tiến hành điều trị. Các phương pháp điều trị có thể sử dụng khi ung thư cổ tử cung di căn não gồm:

- Phẫu thuật: Trong trường hợp khối u ít và chưa lây lan sang những bộ phận khác thì người bệnh sẽ được tiến hành phẫu thuật để giảm kích thước khối u, kết hợp với xạ trị nhằm tiêu diệt tế bào ung thư.

- Xạ trị: Đây là phương pháp sử dụng tia X chiếu lên vùng bị bệnh làm các khối u thu nhỏ lại và giảm bớt sự chèn ép lên não. Từ đó các cơn đau giảm dần. Tuy nhiên, phương pháp này lại gây ra một số tác dụng phụ như rụng tóc, mệt mỏi, nôn mửa, khô, đỏ và loét da,....

Bên cạnh các phương pháp điều trị, tinh thần của người bệnh cũng như chế độ dinh dưỡng, sinh hoạt và tập luyện của người bệnh cũng vô cùng quan trọng. Người bệnh cần thực hiện nghiêm túc chế độ dinh dưỡng mà bác sĩ điều trị hướng dẫn, tuyệt đối không tự ý sử dụng thuốc, thực phẩm chức năng bừa bãi. Khi liệu trình điều trị kết thúc, nếu người bệnh có dấu hiện phục hồi thì người nhà nên đưa người bệnh ra ngoài đi lại nhẹ nhàng để cơ thể linh hoạt hơn.

Sau khi điều trị, cơ hội sống của người bệnh có thể trong 4 -5 tháng hoặc lâu hơn tùy thuộc vào sức khoẻ và mức độ nghiêm trọng của bệnh.


Tác giả: DNA