U trong tim tuy hiếm gặp nhưng vẫn có thể xảy ra ở bất kỳ độ tuổi nào và căn bệnh này cũng rất khó dự phòng. Nếu không được phát hiện kịp thời, bệnh nhân sẽ rất dễ rơi vào tình trạng nguy kịch. Các khối u trong tim có thể liên quan tới ngoại tâm mạc (lớp ngoài cùng bao phủ tim), hoặc cơ tim hoặc nội tâm mạc (lớp màng lót bên trong buồng tim).
U trong tim gồm 2 loại là u lành tính và u khác tinh (Nguồn: internet).
Có 2 loại khối u là khối u lành tính và khối u ác tính. Các khối u lành tính bao gồm:
- U nhầy (Myxoma): một loại u lành tính hay gặp nhất. Khối u này nằm bên trong các khoang tim và chiếm khoảng ½ số khối u có nguồn gốc ở tim. Hầu hết các khối u nhầy xảy ra trong tâm nhĩ trái.
- U cơ vân (Rhabdomyoma): đây là dạng u phát triển trong cơ tim hoặc lớp nội tâm mạc. Khối u này chiếm khoảng ⅕ số khối u bắt nguồn từ tim. Khối u này thường xuất hiện ở trẻ nhỏ hoặc trẻ em, và nó có liên quan tới xơ hóa dạng củ lao, u tuyến bã nhờn da, u thận và rối loạn nhịp tim. Khối u này thường xuất hiện trong nhiều vùng của vách tâm thất.
- U sợi (Fibroma): khối u này cũng phát triển trong cơ tim hoặc nội tâm mạc. Khối u này có xu hướng xảy ra trên van tim và liên quan đến phản ứng viêm
Các khối u ác tính có thể bắt nguồn từ bất cứ mô nào trong tim và hầu hết xảy ra ở trẻ em. U ác tính bao gồm các loại như Sarcoma mạch máu (Angiosarcoma), Sarcoma sợi (Fibrosarcoma), Sarcoma cơ vân (Rhabdomyosarcoma), Sarcoma mô mỡ (Liposarcoma).
Khi bị u tim, các triệu chứng sẽ ảnh hướng đến một phần nào đó của tim. Nếu khối u là u ác tính trong một cơ quan nào đó của cơ thể làm hình thành triệu chứng bệnh lý tim mạch và đó có thể là dấu hiệu khối u đã di căn tới tim.
Các triệu chứng và dấu hiệu của tình trạng này có xu hướng ảnh hưởng đến một phần nào đó của tim. Nếu một người có khối u ác tính trong một phần khác của cơ thể, hình thành triệu chứng bệnh lý tim thì có thể là dấu hiệu của khối u di căn đến tim.
Khối u nhầy có các triệu chứng tương tự với bệnh viêm nội tâm mạc nhiễm khuẩn, bệnh lý mạch máu collagen, rối loạn van tim do bệnh lý thấp như dung huyết phổi và có các tiếng tim bất thường. Thông thường, người có khối u nhầy không bị trương phình nhĩ trái như ở người có bệnh lý về van tim.
Các triệu chứng về tim của khối u cơ vân (Rhabomyomas) và u sợi (Fibromas) bao gồm tắc nghẽn dòng chảy máu, nhịp tim nhanh, phì đại tim, tiếng tim bất thường,.... Khi khối u đã di căn từ một bộ phận nào đó của cơ thể sẽ xuất hiện những dấu hiệu như tim lớn đột ngột, tim thay đổi hình dáng một cách kỳ lạ, tắc nghẽn dòng máu, suy tim không lý do.
Khối ác u tính bắt nguồn từ tim có thể gồm những triệu chứng như suy tim đột ngột, xuất hiện tình trạng tích tụ dịch máu trong lớp lót quanh tim kèm theo tình trạng nghẽn dòng máu chảy trong tim, các loại rối loạn nhịp tim khác nhau. Khi so sánh với các khối u lành tính thì các khối u ác tính có xu hướng gây ra tình trạng suy sụp, tổn thương nhanh chóng, và có thể lan rộng đến tủy sống, cột sống gần các mô mềm và các cơ quan trọng.
Nguyên nhân gây ra u trong tim chủ yếu liên quan tới yếu tố gia đình và một phần do yếu tố di truyền. Hoặc khi trong cơ thể có một khối u khác và khối u đó di căn đến tim, nhất là u hắc tố, u vú, ung thư phổi thì cũng có thể hình thành nên các khối u ác tính trong tim.
Thông thường, khi bệnh nhân phát hiện và kiểm tra tim mạch thì khối u đã khá to và đã ở giai đoạn cuối do chỉ xuất hiện các triệu chứng đơn giản như mệt, khó thở, bị ngất,...
Các triệu chứng thông thường của u trong tim là ngất, khó thở, mệt mỏi,... (Nguồn: internet).
Khi không được phát hiện và điều trị kịp thời, khối u nhầy có thể khiến bệnh nhân bị đột tử do tắc cấp tính van hai lá hoặc mạch vành. Còn với những khối u khác và nhất là u ác tính sẽ di căn từ bộ phận khác tới tim và gây ra suy tim ứ huyết, tràn dịch màng tim, rối loạn nhịp và blốc tim, thậm chí, bệnh nhân có thể tử vong nhanh chóng.
Từ những dấu hiệu nhận biết, cũng như tùy loại u mà các bác sĩ sẽ sử dụng những phương pháp chữa trị khác nhau như phương pháp phẫu thuật cắt bỏ khối u, hay sử dụng tia xạ để điều trị các khối u ác tính, hóa trị, xạ trị và kiểm soát các biến chứng.
Ngay khi thấy xuất hiện những dấu hiệu như đau ngực, đánh trống ngực, sốt, sút cân, khó thở, mệt mỏi, hay ngất khi thay đổi tư thế thì nên đi khám các bác sĩ chuyên khoa để sớm phát hiện bệnh, tránh để u phát triển to hoặc thậm chí không thể cứu mới phát hiện bệnh.