Lấy ví dụ từ Nhật Bản - Quốc gia có gần 25% là người già, ung thư đang là nguyên nhân gây tử vong hàng đầu và ước tính ½ dân số tử vong vì ung thư.
Từ điều đó, TS. BS Phạm Nguyên Quý (BV Trung ương Miniren Kyoto, BV Đại học Kyoto) nhấn mạnh: "Chúng ta nên quan tâm tới những thay đổi cơ thể và đi khám bệnh khi có lo lắng về sức khỏe. Tuy nhiên, các bạn cần hiểu rõ sự khác biệt giữa TẦM SOÁT/SÀNG LỌC ung thư và CHẨN ĐOÁN ung thư."
Tầm soát là hành động đi tìm xem có ung thư hoặc tổn thường "tiền ung thư" khi CHƯA HỀ CÓ TRIỆU CHỨNG. Vì việc thực thi tầm soát thường mất thời gian, công sức và tiền bạc nên người ta phải đắn đo nghiên cứu kỹ lưỡng và chỉ khuyến cáo TẦM SOÁT UNG THƯ khi nguy cơ ung thư ở một mức độ cao - khá cao nào đó mà thôi.
Dựa theo tần suất mắc bệnh ung thư vú ở phụ nữ mà các tổ chức y tế thường khuyến cáo rằng:
- Phụ nữ lứa tuổi 45-54 nên chụp nhũ ảnh mỗi năm.
- Phụ nữ từ 55 tuổi trở lên nên chuyển sang nhũ ảnh mỗi 2 năm, hoặc có thể tiếp tục xét nghiệm này hàng năm và tầm soát nên tiếp tục chừng nào người phụ nữ đó có sức khỏe tốt và dự kiến sẽ sống thêm hơn 10 năm.
- Phụ nữ lứa tuổi 40-44 nên cân nhắc lựa chọn bắt đầu sàng lọc ung thư vú hàng năm bằng việc chụp nhũ ảnh nếu có nguyện vọng.
Phụ nữ cũng nên nói chuyện với bác sĩ chuyên khoa về kế hoạch tầm soát cụ thể cho mình, sau khi cân nhắc thêm các yếu tố như bệnh sử gia đình hoặc thời gian sử dụng thuốc bổ sung hormone (nếu có).
Tuổi tác cũng là yếu tố ảnh hưởng tới khả năng sinh sản của nữ giới, cụ thể là sau 35-40 tuổi thường khó mang thai và sinh nở hơn. Chuyện sinh sản/mang thai và ung thư vú có liên hệ gián tiếp với nhau qua "thời gian tiếp xúc hormone estrogen" như: Dậy thì sớm, Mãn kinh muộn hoặc Sinh con đầu lòng muộn là các yếu tố nguy cơ ung thư vú được biết tới.
Ung thư vú có nhiều dạng/thể khác nhau, được phân loại theo quy chuẩn giải phẫu bệnh (lấy khối u/một phần khối u soi dưới kính hiển vi để phân tích). Về hình thái, ung thư vú có thể được chia ra thành Ung thư vú thể nhú, Ung thư vú tiểu thùy xâm nhập, Ung thư vú thể ống nhỏ, thể sàng, thể nhầy, thể tủy, dạng viêm,... Tùy theo biểu hiện HER2 và Thụ thể hormone và các marker khác mà có thể chia theo các kiểu khác nhau.
Cần lưu ý rằng bất kỳ loại nào, giai đoạn nào cũng sẽ có chiến lược điều trị thích hợp sau khi cân nhắc đầy đủ yếu tố cá nhân và xã hội của người bệnh.