Bệnh quai bị là gì? Những điều cần biết về bệnh quai bị

Bệnh quai bị là gì? Những điều cần biết về bệnh quai bị
Quai bị (tên dân gian "má chàm bàm") là một bệnh truyền nhiễm cấp tính khá phổ biến do virus quai bị gây ra. Hiện nay, chưa có thuốc điều trị đặc hiệu. Bệnh quai bị nếu không được chẩn đoán sớm và điều trị đúng cách sẽ gây ra nhiều biến chứng rất nguy hiểm.

1. Bệnh quai bị là gì?

Bệnh quai bị, hay còn gọi là bệnh má chàm bàm, là một bệnh truyền nhiễm cấp tính, lây trực tiếp qua đường hô hấp. Tác nhân gây bệnh là do virus quai bị, gây sưng đau tuyến nước bọt mang tai không hóa mủ. Ngoài ra, bệnh quai bị còn có thể gây viêm tuyến sinh dục, viêm màng não, viêm tụy và một số cơ quan khác.

Trẻ em là đối tượng thường xuyên nhiễm quai bị trừ độ tuổi nhũ nhi ( ít hơn 1 tuổi) thì hiếm khi mắc bệnh, nguyên nhân có thể do vẫn còn kháng thể tốt từ mẹ.

Đây là một bệnh khá phổ biến và đôi khi gây ra các biến chứng khác nếu không được chữa trị kịp thời.

2. Tác nhân gây bệnh quai bị

Quai bị là một bệnh truyền nhiễm cấp tính gây ra bởi virus quai bị (Mumps virus), đây là virus ARN, thuộc giống Rubulavirus, họ Paramyxoviridae

Khả năng tồn tại: vi rút có thể tồn tại khá lâu ở môi trường ngoài cơ thể: từ 30 – 60 ngày ở nhiệt độ 15 - 200C, khoảng 1-2 năm ở nhiệt độ âm sâu (- 25 tới -700C). Bị diệt nhanh chóng ở nhiệt độ trên 560C, hoặc dưới tác động của tia tử ngoại, ánh sáng mặt trời và những hóa chất khử khuẩn chứa clo hoạt và các chất khử khuẩn bệnh viện thường dùng.

3. Dịch tễ học của bệnh quai bị

Bệnh quai bị phân bố rộng trên toàn cầu. Tuy nhiên, tỷ lệ mắc cao hơn ở những vùng dân cư đông đúc, đời sống thấp kém, vùng khí hậu thường xuyên mát hoặc lạnh.

Tại Việt Nam, bệnh quai bị thường gặp dưới dạng các vụ dịch vừa, nhỏ hoặc ca bệnh tản phát trên cả nước, với tỷ lệ mắc hàng năm dao động từ 10 đến 40 trường hợp trên 100 000 dân, tập trung cao hơn ở các tỉnh miền Bắc và Tây Nguyên.

Việc tiêm vắc xin dự phòng chưa phổ cập rộng rãi nên tỷ lệ mắc hàng năm gần như không giảm đi trong vòng 10 năm gần đây.Tỷ lệ chết do quai bị rất thấp, không vượt quá 1/100.000 dân, thường xảy ra ở các trường hợp nặng, có viêm não - màng não hoặc viêm nhiều tuyến.

Ở nước ta, bệnh có thể tản phát quanh năm, tuy nhiên thường gặp hơn vào các tháng thu - đông. Khí hậu mát, lạnh và khô hanh giúp cho bệnh quai bị có thể lan truyền mạnh hơn. Dịch quai bị thường xảy ra trong nhóm trẻ em đi nhà trẻ, lớp mẫu giáo hoặc đến trường phổ thông, cũng có thể gặp trên nhóm trẻ lớn hoặc thanh niên và người lớn tuổi với tỷ lệ thấp hơn và thường là các trường hợp tản phát. Tỷ lệ mắc ở nam giới thường cao hơn nữ.

4. Nguồn truyền nhiễm và phương thức lây truyền

4.1. Nguồn truyền nhiễm

Nguồn truyền nhiễm của bệnh quai bị là người. Người bệnh điển hình trong giai đoạn khởi phát bệnh là nguồn truyền nhiễm quan trọng nhất, ngoài ra người mang vi rút không triệu chứng (quai bị thể tiềm ẩn) cũng có vai trò nguồn truyền nhiễm.

Trong ổ dịch, thường cứ 1 bệnh nhân quai bị lâm sàng có từ 3-10 người mang vi rút lành, chủ yếu là người tiếp xúc gần với bệnh nhân trong thời kỳ ủ bệnh và phát bệnh.

Thời gian ủ bệnh: kéo dài, từ 12 - 25 ngày (2-3 tuần), trung bình khoảng 18 ngày.

Thời kỳ lây truyền: Vi rút có trong nước bọt của bệnh nhân quai bị trước khi khởi phát (có sốt, viêm tuyến nước bọt) khoảng 3 - 5 ngày, và sau khi khởi phát khoảng 7 - 10 ngày, đây chính là giai đoạn lây truyền của bệnh, trong đó mạnh nhất khoảng 1 tuần xung quanh ngày khởi phát. Vi rút cũng có thể thấy ở nước tiểu của bệnh nhân trong vòng 2 tuần.

4.2. Phương thức lây truyền

Bệnh quai bị lây theo đường hô hấp. Vi rút có trong các hạt nước bọt hoặc dịch tiết mũi họng bắn ra ngoài không khí khi bệnh nhân ho, hắt hơi, khạc nhổ, nói chuyện..., người lành hít phải trực tiếp hoặc qua các đồ dùng bị nhiễm dịch hô hấp do bệnh nhân thải ra sẽ có nguy cơ mắc bệnh.

Những hạt nước bọt chứa vi rút sống gây bệnh kích thước nhỏ (từ 5 - 100 mm) có thể phát tán mạnh trong phạm vi 1,5 mét; những hạt cực nhỏ, dạng khí dung (dưới 5 mm) có thể bay lơ lửng nhiều giờ trong không khí ở những không gian kín, gặp gió các hạt khí dung chứa vi rút có thể phát tán xa hơn.

5. Tính cảm nhiễm và miễn dịch

Mọi người chưa có miễn dịch đều có thể nhiễm vi rút và mắc bệnh quai bị, tuy khả năng cảm nhiễm có thể không cao bằng một số bệnh khác như sởi, thủy đậu.

Nhóm người có tính cảm nhiễm cao nhất là trẻ em (từ 6 tháng tuổi, sau khi hết miễn dịch của người mẹ).

Tuổi càng lớn khả năng miễn dịch càng cao. Kết quả điều tra huyết thanh học cho thấy có khoảng 85% số người ở tuổi trưởng thành đã có miễn dịch với quai bị do nhiễm trùng tự nhiên.

Ở những khu vực đã tiếp cận với vắc xin phòng quai bị, tỷ lệ miễn dịch còn cao hơn.

Sau khi nhiễm vi rút hay mắc bệnh quai bị hoặc sau khi dùng vắc xin quai bị đúng liều lượng, đều có khả năng miễn dịch lâu dài trong nhiều năm, có thể suốt đời.

6. Triệu chứng bệnh quai bị

quaibi-1552875925097

Ảnh so sánh trẻ bình thường và trẻ bị quai bị- Ảnh minh họa

Biểu hiện chính của bệnh ban đầu là

+ Sốt nhẹ

+ Nhức đầu

+ Mệt mỏi

+ Mất cảm giác ngon miệng

Sau đó sốt tăng dần lên đến 39,5°C - 40°C, các tuyến mang tai gần tai bắt đầu sưng lên và đau, làm cho việc nhai và nuốt đau đớn…

Tiếp theo, người bệnh có thể bị viêm tinh hoàn (ở nam giới), viêm buồng trứng (ở nữ giới).

Viêm tinh hoàn do quai bị hay gặp nhất ở lứa tuổi dậy thì và thanh thiếu niên mới trưởng thành. Đặc điểm nổi bật của viêm tinh hoàn là thường xảy ra một bên (ít gặp viêm 2 bên), tinh hoàn sưng to, đau, mật độ chắc, da bìu bị phù nề, căng, bóng, đỏ.

Bệnh nhân cũng có thể bị viêm mào tinh hoàn, viêm thừng tinh hoàn, tràn dịch màng tinh hoàn, viêm tuỵ, viêm não, màng não...

Bệnh quai bị ít gây tử vong nhưng phụ nữ có thai bị quai bị có thể bị sảy thai, đẻ non, ở nam giới tuổi trưởng thành nếu viêm tinh hoàn nặng cả hai bên có thể dẫn đến vô sinh.

Các triệu chứng thường xuất hiện 16 - 18 ngày sau khi nhiễm bệnh, nhưng giai đoạn này có thể dao động từ 12 - 25 tháng sau khi nhiễm bệnh.

Một số người bị quai bị có các triệu chứng rất nhẹ (như cảm lạnh), hoặc không có triệu chứng nào (chiếm khoảng 20% số người nhiễm vi rút)

Trong một số ít trường hợp, quai bị có thể gây ra các biến chứng nghiêm trọng hơn.

Hầu hết những người mắc quai bị phục hồi hoàn toàn trong vòng hai tuần.

7. Các biến chứng có thể gặp ở bệnh quai bị

Rất hiếm gặp các biến chứng ở bệnh nhân quai bị. Tuy nhiên, nếu có các biến chứng này thường rất nghiêm trọng nếu không được chữa trị đúng cách.

Quai bị ảnh hưởng chủ yếu đến tuyến mang tai. Tuy nhiên, nó cũng gây viêm ở các khu vực khác của cơ thể như não và cơ quan sinh sản.

Một số biến chứng của quai bị gồm:

+ Viêm tinh hoàn: xảy ra ở khoảng 20 - 30% bệnh nhân không được tiêm phòng và 6 - 7% số bệnh nhân đã được tiêm phòng. Trong 60 - 83% nam giới bị viêm tinh hoàn do quai bị, thường chỉ có một tinh hoàn bị ảnh hưởng. Thông thường, viêm tinh hoàn hiếm khi gây vô sinh. Nhưng nếu gặp phải biến chứng đáng lo ngại nhất là teo tinh hoàn thì có thể dẫn đến vô sinh. Tuy nhiên, tỷ lệ teo tinh hoàn là khá thấp, chỉ khoảng 0,5%.

+ Viêm buồng trứng: tình trạng viêm buồn trứng gây đau bụng, rong kinh. Đặc biệt, phụ nữ mang thai nếu mắc quai bị trong vòng 3 tháng đầu có thể gây xảy thai hoặc thai chết lưu.

+ Viêm não, viêm màng não: thường hiếm gặp, ít hơn 1% số người bệnh quai bị ở Hoa Kỳ. Tuy nhiên, nếu không chữa trị kịp thời, tình trạng này có thể gây tử vong cho bệnh nhân. Nên liên hệ ngay với bác sỹ nếu bệnh nhân quai bị có các biểu hiện co giật, mất ý thức hoặc đau đầu dữ dội.

+ Viêm tụy cấp tính: đây là một tình trạng tạm thời và thường nhẹ. Các triệu chứng bao gồm: đau bụng, buồn nôn và nôn.

+ Mất thính lực vĩnh viễn: rất hiếm gặp, chỉ khoảng 5 trên 10.000 trường hợp, do virus quai bị có thể làm tổn thương ốc tai dẫn đến mất thính lực.

+ Viêm thận, viêm cơ tim và các biến chứng khác: rất hiếm gặp.

Người lớn mắc bệnh quai bị thường tiến triển nặng và để lại các biến chứng nguy hiểm hơn so với trẻ em. Mặc dù các biến chứng trên xảy ra với tỷ lệ khá thấp nhưng lại rất nguy hiểm, không chỉ ảnh hưởng tới khả năng sinh sản mà còn có thể đe dọa đến tính mạng của người bệnh.

8. Khi nào cần phải gặp bác sỹ?

Nếu nghi ngờ mắc phải quai bị, hay có dấu hiệu đau ở vùng mang tai, nên đến khám bác sỹ để chẩn đoán chính xác bệnh. Cơ địa và tình trạng bệnh lý có thể khác nhau ở nhiều người. Không nên tự ý điều trị ở nhà khi chưa thăm khám bác sỹ, vì nếu điều trị không đúng cách có thể dẫn đến nhiều biến chứng nguy hiểm.

9. Điều trị và chế độ ăn uống cho bệnh nhân quai bị

Hiện nay, bệnh quai bị chưa có thuốc điều trị đặc hiệu, phương pháp chủ yếu là điều trị triệu chứng, tăng cường dinh dưỡng, nâng đỡ cơ thể, phát hiện và xử trí sớm các biến chứng viêm tinh hoàn, viêm màng não...

benh-quai-bi-o-tre-em

Nên đến khám bác sỹ khi nghi ngờ bệnh quai bị- Ảnh: Internet

+ Khi có dấu hiệu đau ở vùng mang tai, nên đi khám bác sĩ để chẩn đoán chính xác bệnh, vì viêm tuyến nước bọt không nhất thiết do virus quai bị mà có thể do các virus hoặc vi khuẩn khác gây ra

+ Người bệnh cần nghỉ ngơi thoải mái và không nên tiếp xúc với các đối tượng có nguy cơ lây nhiễm cao như trẻ em, thanh thiếu niên

+ Kiêng nước lạnh và ra gió để tránh làm cho vùng quai bị bị sưng to và nặng hơn và vệ sinh răng miệng sạch sẽ

+ Có thể sử dụng thuốc giảm đau, hạ sốt thành phần Paracetamol khi có các triệu chứng sốt cao >38,50C hay khi đau nhiều ảnh hưởng tới ăn uống và giấc ngủ.

+ Uống nhiều nước để bù nước và chất điện giải, nhưng không nên uống nước ép trái cây có vị chua vì nó chứa nhiều thành phần axit, gây kích thích các tuyến mang tai, tạo nhiều nước bọt và gây đau nhiều hơn.

+ Có thể chườm mát để tuyến nước bọt bớt sưng, đau.

+ Hạn chế thức ăn có chứa thành phần nếp (xôi, bánh chưng...) vì chúng có thể làm cho vùng hàm trở nên sưng to hơn.

+ Hạn chế các loại thực phẩm cứng, các thức ăn nhiều gia vị, cay nóng hoặc có tính acid. Nên chọn thức ăn dạng lỏng, mềm, dễ nuốt, hạn chế nhai nhiều.

+ Tránh vận động mạnh

Điều trị khi gặp phải các biến chứng:

+ Điều trị chống viêm tinh hoàn, buồng trứng, viêm tụy, viêm màng não theo chỉ định của bác sỹ.

+ Chườm túi nước đá gần tinh hoàn để giảm đau nếu tinh hoàn bị ảnh hưởng

+ Viêm tụy: chườm nóng vùng thượng vị, ăn nhẹ và lỏng.

10. Phòng ngừa bệnh quai bị

+ Thường xuyên rửa tay với xà phòng, bảo đảm vệ sinh nhà ở, lớp học, vệ sinh cá nhân sạch sẽ, đặc biệt là đường hô hấp, thường xuyên đeo khẩu trang để tránh những viêm nhiễm gây nên bệnh quai bị.

+ Hạn chế tiếp xúc trực tiếp người bệnh, không ăn uống chung hoặc dùng chung đồ dùng cá nhân với người bị bệnh

+ Biện pháp phòng bệnh hiệu quả nhất là tiêm vắc xin quai bị. Vắc xin quai bị đang được sử dụng hiện nay là vắc xin vi khuẩn sống, nhưng đã được làm giảm độc lực để không còn khả năng gây bệnh.

Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) và nhiều cơ quan y khoa ở các nước phát triển đều khuyến cáo đưa vắc xin quai bị vào trong chương trình tiêm chủng để phòng chống bệnh. Hiện nay, vắc xin quai bị thường được phối hợp với vắc xin sởi, rubella trong cùng 1 chế phẩm (MMR) để giảm số lần tiêm và đơn giản hóa quy trình tiêm phòng. Không chỉ trẻ em, mà ngay cả người lớn đặc biệt là phụ nữ có kế hoạch mang thai đều nên tiêm phòng quai bị.

+ Người lớn: tiêm một liều duy nhất 0.5ml trên bắp tay

+ Trẻ em: mũi thứ nhất tiêm khi trẻ được 12 -18 tháng tuổi, mũi thứ 2 tiêm khi trẻ khoảng từ 3-5 tuổi hoặc trước khi trẻ đi học, 2 mũi nên được tiêm cách nhau tối thiểu 1 tháng.

+ Phụ nữ chuẩn bị mang thai cần xét nghiệm trước khi tiêm phòng vắc xin quai bị. Trong vòng 1 tháng sau khi tiêm vắc xin cần tránh mang thai. Đối với phụ nữ đang mang thai hoặc đang cho con bú cần hỏi ý kiến bác sĩ trước khi tiêm phòng vắc xin quai bị-sởi-rubella.

Kết luận

Quai bị là bệnh truyền nhiễm mà ở lứa tuổi nào cũng có nguy cơ mắc bệnh. Nếu không phát hiện và điều trị đúng cách có thể gây nhiều biến chứng nguy hiểm. Vì vậy, nên chủ động phòng ngừa quai bị bằng cách tiêm phòng vắc xin đầy đủ nhằm bảo vệ sức khỏe cho chính mình và gia đình.


Tác giả: Nguyễn Phan Thư Trinh