Bệnh ký sinh trùng là một trong những căn bệnh phổ biến hiện nay, chúng lây truyền qua nhiều con đường nhưng chủ yếu vẫn là ăn uống không đảm bảo vệ sinh, ăn thức ăn chưa được nấu chín. Đây là căn bệnh có khả năng tái nhiễm vô cùng cao, do đó để tránh xa căn bệnh nguy hiểm này bạn nên chủ động phòng tránh và dùng thuốc điều trị bệnh ký sinh trùng.
Bài viết này sẽ cung cấp cho bạn những lời khuyên, tư vấn về một số thuốc điều trị bệnh ký sinh trùng tương ứng với từng loại bệnh. Các thông tin dưới đây mang tính chất tham khảo, do đó bạn nên hỏi ý kiến bác sĩ và thăm khám cẩn thận trước khi sử dụng.
Ký sinh trùng do amip là bệnh do đơn bào Entamoeba histolytica gây ra. Khi bệnh nhân mắc trùng amip cơ thể sẽ bị ảnh hưởng như: loét niêm mạc đại tràng, gây ra các ổ abces trong các cơ quan khác bên trong.
Đây là căn bệnh ký sinh trùng khó điều trị dứt điểm, mắc bệnh kéo dài gây ra mãn tính. Bệnh có thể lây qua đường ăn uống không vệ sinh, uống nước nhiễm kén amip.
Ban đầu, khi mắc bệnh, bệnh nhân có biểu hiện như: đau bụng, đại tiện nhiều lần không dứt, mỗi lần đều phân ít, nhiều nhầy, có mùi tanh, kèm theo đó là cảm giác đau rát hậu môn và sốt nhẹ.
Nặng hơn nữa, giai đoạn muộn của bệnh sẽ khiến người mắc đau dọc khung đại tràng, kèm theo rối loạn tiêu hóa, táo bón nhưng phân lỏng xen kẽ, đồng thời vẫn có thể có các dấu hiệu như giai đoạn bùng phát trước đó.
Ảnh: Internet
Hiện nay, thuốc điều trị bệnh ký sinh trùng do amip chủ yếu là sử dụng nhóm imidzole (metronidazole, tinidazole, ornidazole). Các loại thuốc thuộc nhóm này có ưu điểm là có thể tiêu diệt cả kén amip lẫn amip đơn bào. Tuy nhiên, khi dùng thuốc trong thời gian dài dễ gặp một số tác dụng phụ như: chóng mặt, buồn nôn, nôn, đau vùng thượng vị, nổi mề đay...Các dấu hiệu này thường hết sau khi thuốc được đào thải ra khỏi cơ thể.
Lưu ý: Thuốc không được sử dụng cho phụ nữ có thai trong 3 tháng đầu hoặc trong giai đoạn cho con bú.
Đây là loại bệnh chủ yếu gặp ở trẻ nhỏ và lây qua thức ăn nhiễm bẩn, nước chứa trứng giun, nhiễm thụ động qua đường phân - tay - miệng ở trẻ. Giun kim gây ra cảm giác ngứa hậu môn, mất ngủ, nếu gãi hậu môn khiến xước bộ phận này, bé gái có thể bị viêm âm đạo.
Thuốc điều trị bệnh ký sinh trùng do nhiễm giun kim thường được sử dụng là mebendazole, flubendazole hoặc albendazole.
Bệnh do giun đũa gây ra có thể điều trị bằng thuốc mebendazole, flubendazole hoặc albendazole. Cần lưu ý khi sử dụng, cần sự chỉ định của bác sĩ trước khi dùng.
Ảnh: Internet
Giun móc thường phát tán ở những vùng nhiệt đới hoặc cận nhiệt đới, điều kiện nóng ẩm giúp chúng sinh sôi nảy nở và truyền bệnh. Giun móc khi trưởng thành có chiều dài khoảng 1 - 2 cm và trú ngụ ở tá tràng, hỗng tràng. Chúng hút máu của vật chủ, khoảng 0,2ml/ngày và sống trung bình 5 năm trong cơ thể người, sau đó khiến người bệnh thiếu máu, suy nhược, xanh sao, gầy gò.
Có thể điều trị giun móc bằng mebendazole, flubendazole hoặc albendazole.
Giun lươn thuộc loại Strongyloides stercoralis, thường trú ẩn ở đầu ruột non và là loại giun hiếm gặp.
Thibendazole, mebendazole, flubendazole hoặc albendazole là các loại thuốc điều trị bệnh lý sinh trùng do giun lươn gây ra.
Giun tóc do Trichiuris Trichiura gây ra, thường ký sinh ở đại tràng và lây nhiễm thông qua thức ăn, đồ uống kém vệ sinh, chứa trứng giun. Đây là bệnh không có triệu chứng, chỉ có thể phát hiện thông qua xét nghiệm phân.
Điều trị bệnh bằng mebendazole, flubendazole hoặc albendazole.
Ảnh: Internet
Sán mán thường được gọi với cái tên khác là bệnh Bilharzia do loài sán dẹt Schistosoma gây bệnh. Bệnh sán mán lây nhiễm thông qua ấu trùng của chúng sinh sống trong nước, xâm nhập vào da của người bệnh và theo tĩnh mạch, bạch mạch về gan.
Biểu hiện lâm sàng khi bệnh nhân mắc sán mán thường chỉ xuất hiện khi vào tuần thứ 4 hoặc thứ 6 sau khi mắc bệnh. Người bệnh bắt đầu có các triệu chứng như đau đầu, sốt, rét run, ho, đau cơ, đau khớp, gan to đau, tăng bạch cầu ái toan.
Sán máng cũng là bệnh có thể thành mãn tính nếu như không điều trị kịp thời và gây ra những biến chứng cho gan.
Ảnh: internet
Thuốc điều trị bệnh ký sinh trùng do sán máng phổ biến nhất là praziquantel, vì đây là thuốc có tác dụng tiêu diệt tất cả các loại chủng sán máng.
Nếu bệnh nhân không thể sử dụng thuốc này, có thể dùng oxamniquin - thuốc điều trị sán máng bán tổng hợp, kể cả sán trưởng thành và chưa trưởng thành. Tuy nhiên oxamniquin lại không thể diệt ấu trùng sán do đó chỉ có thể sử dụng khi sán đã bước vào giai đoạn phát triển.
Lưu ý: Oxamniquin chống chỉ định với người bị bệnh động kinh, rối loạn tâm thần, phụ nữ có thai và cho con bú. Tác dụng phụ thường gặp là chóng mặt, buồn ngủ, đau đầu, buồn nôn, tiêu chảy, ngứa, mề đay…
Sán lá gan lớn do loài sán Fasciola hepatica gây ra. Các biểu hiện của bệnh được chia thành 3 giai đoạn:
- Giai đoạn ấu trùng vào gan: sốt, đau gan, gan to bất thường, tăng bạch cầu ái toan, chức năng gan bị tổn thương
- Giai đoạn tiềm tàng: rối loạn tiêu hóa, sán lá gan đang trú ngụ ở vùng mật.
- Giai đoạn tắc nghẽn: do sán lá gan ở đường mật gây viêm và phì đại đường mật khiến tắc nghẽn.
Thuốc được lựa chọn trong điều trị sán lá gan lớn hiện nay là triclabendazol hoặc bithionol. Tốt nhất là khi đã thấy các biểu hiện nghi ngờ, người bệnh nên đến các cơ sở y tế chuyên khoa để được tư vấn, xét nghiệm và điều trị.
Ảnh: Internet
Trứng sán lá gan nhỏ thường sống trong nước hoặc lây nhiễm vào ốc khi loài vật này sinh trưởng trong môi trường sình lầy. Sau đó ấy trứng sán nở thành ấu trùng, ấu trùng thâm nhập vào cá, đóng thành nang. Người ăn phải cá mắc ấu trùng sán lá gan nhỏ chưa được nấu chín và mắc bệnh.
Bệnh sán lá gan nhỏ có biểu hiện lâm sàng âm thầm, thường dễ bị nhầm với các bệnh khác như: sốt, đau bụng, tiêu chảy,...Nếu không điều trị kịp thời gây ra biến chứng là viêm đường mật, xơ quanh khoảng cửa, nặng hơn là gây ra ung thư biểu mô đường mật.
Thuốc điều trị bệnh ký sinh trùng do sán lá gan nhỏ gây ra hàng đầu hiện nay là Praziquantel.
Đây là loại sán dẹt, có đốt và dài khoảng 6 - 10cm, gồm 2 loại sán xơ mít là Taenia saginata và Taenia solium. Bệnh nhân thường có biểu hiện như: đau bụng mơ hồ, không đặc hiệu, chán ăn hoặc ăn không biết no. Điều trị bằng nicosamid hoặc praziquantel.
ThS. Nguyễn Thu Hiền
Theo Sức khỏe đời sống