Một số tình trạng cho thấy ảnh hưởng đến toàn bộ cơ thể và là những yếu tố nguy cơ cơ thể thay đổi được của chứng sa sút trí tuệ.
Ngoài ra, tình trạng giảm thị lực còn được biết đến là dấu hiệu ban đầu của chứng bệnh sa sút trí tuệ.
Chưa hết, khi kết hợp với tình trạng bệnh toàn thân và suy giảm thị lực thì nguy cơ mắc bệnh sa sút trí tuệ cao hơn đáng kể.
Hiện nay vẫn chưa có một biện pháp khoa học nào có tác dụng điều trị nhằm ngăn chặn sự tiến triển của bệnh sa sút trí tuệ. Vì thế, điều quan trọng hơn cả là cần xác định các yếu tố có nguy cơ. Đặc biệt những yếu tố có thể thay đổi được nhằm hỗ trợ cũng như kiểm soát và ngăn chặn bệnh sa sút trí tuệ xảy ra.
Trong một nghiên cứu gần đây được xuất hiện trong Tạp chí Nhãn khoa Anh cho biết, việc kiểm tra các tình trạng nhãn khoa và hệ thống cũng như mối quan hệ của chứng sa sút trí tuệ có tác động và ảnh hưởng liên quan đến nhau.
Nhiều nghiên cứu đã xác định rằng các tình trạng toàn thân, chẳng hạn như béo phì, trầm cảm, tăng huyết áp và tiểu đường là các yếu tố rủi ro hàng đầu cho chứng mất trí nhớ.
Mặt khác, các nghiên cứu điều tra mối quan hệ có thể có giữa suy giảm thị lực và sa sút trí tuệ hoặc suy giảm nhận thức là không nhất quán và bị giới hạn bởi kích thước mẫu nhỏ.
Trong khi đó, tình trạng nhãn khoa và toàn thân thường xảy ra đồng thời vì chúng đều có liên quan đến việc tăng tuổi tác. Tuy nhiên, vẫn chưa rõ liệu các tình trạng nhãn khoa này có liên kết độc lập với nguy cơ cao bị sa sút trí tuệ hay không.
Đọc thêm:
- Phát hiện ung thư bằng trí tuệ nhân tạo AI - đột phá trong y học thời 4.0
- Đục thủy tinh thể là gì? Điều trị đục thủy tinh thể bằng cách nào?
Với các nghiên cứu, các tác giả đã phân tích dữ liệu từ Ngân hàng Biobank của Vương quốc Anh để xác định xem liệu các tình trạng nhãn khoa đơn thuần trong trường hợp không có các bệnh lý toàn thân nguy cơ cao khác có phải là dấu hiệu cho thấy tỷ lệ mắc chứng sa sút trí tuệ cao hơn hay không.
Đối với nghiên cứu, các nhà nghiên cứu đã đánh giá 12.364 người trưởng thành từ 55–73 tuổi từ năm 2005 đến năm 2010 và sau đó theo dõi họ trong 11 năm cho đến năm 2021. Trong thời gian này, họ ghi nhận 2.304 trường hợp mất trí nhớ do mọi nguyên nhân cùng với 945 trường hợp mắc bệnh Alzheimer và 513 trường hợp các trường hợp sa sút trí tuệ mạch máu.
Các nhà khoa học hỏi những người tham gia này liệu một bác sĩ đã nói với họ trong suốt thời gian nghiên cứu rằng họ mắc một số tình trạng bệnh thông thường hay không. Những tình trạng này bao gồm bệnh tim, đột quỵ, cao huyết áp, trầm cảm và tiểu đường.
Phân tích dữ liệu cho thấy chỉ đột quỵ, chỉ bệnh tim, chỉ tiểu đường, chỉ tăng huyết áp và trầm cảm chỉ có liên quan độc lập đến việc tăng nguy cơ sa sút trí tuệ.
Kết hợp với bất kỳ tình trạng nào trong số này, thoái hóa điểm vàng do tuổi tác cũng có liên quan đến việc tăng nguy cơ sa sút trí tuệ.
Nguy cơ kết hợp này lớn hơn so với những người chỉ bị thoái hóa điểm vàng hoặc chỉ là tình trạng toàn thân.
So với những người tham gia không có bệnh lý về mắt khi bắt đầu nghiên cứu, nguy cơ mất trí nhớ cao hơn 26% ở những người bị thoái hóa điểm vàng do tuổi tác trong thời gian nghiên cứu.
Những người tham gia bị đục thủy tinh thể cho thấy nguy cơ tăng 11% và những người bị bệnh mắt liên quan đến tiểu đường có nguy cơ bị sa sút trí tuệ cao hơn 61%.
Bệnh tăng nhãn áp không liên quan đến việc tăng nguy cơ mắc bệnh Alzheimer hoặc chứng sa sút trí tuệ do mọi nguyên nhân. Tuy nhiên, tình trạng này cho thấy nguy cơ mắc chứng sa sút trí tuệ mạch máu cao hơn.
Kèm theo đó, các tác giả lưu ý rằng khi bệnh tăng nhãn áp đồng thời xảy ra với đột quỵ, bệnh tim, tiểu đường, tăng huyết áp hoặc trầm cảm, nguy cơ sa sút trí tuệ do mọi nguyên nhân tăng lên đáng kể.
Lý do cho mối liên hệ rõ ràng giữa các tình trạng nhãn khoa và chứng sa sút trí tuệ vẫn chưa được biết, nhưng các tác giả liệt kê một số khả năng.
Tình trạng nhãn khoa thường xuyên cùng tồn tại với các yếu tố nguy cơ mất trí nhớ toàn thân nổi tiếng. Chúng cũng thường xuất hiện ở những người lớn tuổi, những người hút thuốc và ít hoạt động thể chất và những người có trình độ học vấn thấp.
Đáng chú ý nhất, suy giảm thị lực có thể một trong những người đầu tiên biểu hiện của bệnh sa sút trí tuệ. Giảm kích thích các con đường cảm giác thị giác có thể dẫn đến tăng tốc độ tiến triển của bệnh.
Tiến sĩ Richard Rosen, một bác sĩ phẫu thuật thủy tinh thể tại Trung tâm Y tế Mount Sinai ở Thành phố New York và là phó chủ tịch kiêm giám đốc nghiên cứu nhãn khoa nói rằng nghiên cứu này củng cố một thực tế rằng các chuyên gia chăm sóc sức khỏe cần phải đề phòng những yếu tố nguy cơ này.
Đọc thêm: Điểm vàng của mắt là gì? Cách phòng tránh thoái hóa điểm vàng của mắt
Tiến sĩ Rosen nói thêm: "Những người có các yếu tố nguy cơ này cần được theo dõi. Ông nhấn mạnh rằng có những cách tiếp cận mới có thể kiểm soát sự tiến triển của chứng sa sút trí tuệ và cuối cùng có thể ngăn ngừa căn bệnh này."
"Cần nghiên cứu thêm trong các quần thể khác nhau để so sánh điều kiện mắt và nguy cơ mất trí nhớ", Claire Sexton, DPhil, giám đốc chương trình khoa học và tiếp cận cộng đồng Hiệp hội Alzheimer cho biết.
Bà cũng nhấn mạnh rằng cần phải có thêm nhiều nghiên cứu để xác định liệu việc khắc phục tình trạng mất thị lực có thể làm giảm nguy cơ suy giảm nhận thức hay không.
Sexton nói: "Điểm mấu chốt đối với các cá nhân là: Nếu bạn đang bị mất thị lực, điều quan trọng là phải tham khảo ý kiến bác sĩ nhãn khoa để khám phá các khả năng điều chỉnh thị lực."
Mặc dù dân số nghiên cứu rất lớn và bao gồm một khoảng thời gian đáng kể, các tác giả lưu ý rằng đây chỉ là một nghiên cứu quan sát và nó không chỉ ra mối quan hệ nhân quả. Đồng thời, họ cũng đề cập đến một số hạn chế khác.
Ví dụ, các tác giả giải thích rằng nhiều tình trạng nhãn khoa đã được tự báo cáo. Ngoài ra, một số trường hợp sa sút trí tuệ được báo cáo có thể đã xảy ra trước khi mắc bệnh về mắt.
Các tác giả kết luận rằng thoái hóa điểm vàng liên quan đến tuổi tác, đục thủy tinh thể và bệnh mắt liên quan đến tiểu đường, nhưng không phải bệnh tăng nhãn áp, có liên quan đến tăng nguy cơ sa sút trí tuệ.
Những người có cả bệnh lý nhãn khoa và toàn thân có nguy cơ thậm chí cao hơn so với những người chỉ có bệnh lý nhãn khoa hoặc chỉ bệnh lý toàn thân.