Bệnh sởi là bệnh phổ biến xảy ra vào mùa đông xuân. Bệnh do virus Polinosa morbillarum, thuộc họ paramyxovirus gây ra, phạm vi lây truyền có thể mạnh hơn cả bệnh cúm và thủy đậu với nguy cơ 90% những người ở gần người bị nhiễm bệnh và không miễn dịch với virus sẽ mắc bệnh. Chỉ có con người truyền virus gây bệnh sởi. Bệnh sởi lây thông qua đường hô hấp, do dịch tiết mũi họng của người nhiễm bệnh theo không khí thoát ra khi người bệnh ho hoặc hắt hơi, nói chuyện,…
Đáng lưu ý là người mắc bệnh sởi có thể lây truyền virus cho người khác trong khoảng 8 ngày, bắt đầu từ 4 ngày trước khi phát ban sởi và kết thúc khi các nốt ban sởi xuất hiện được khoảng 4 ngày. Theo CDC, các triệu chứng bệnh sởi thường bắt đầu từ 7 - 14 ngày sau khi tiếp xúc với mầm bệnh. Cụ thể, các giai đoạn phát triển bệnh sởi như sau:
- Giai đoạn nhiễm trùng và ủ bệnh: Trong 7 - 14 ngày đầu, virus sởi xâm nhập cơ thể mà không có dấu hiệu hay triệu chứng bệnh sởi đặc trưng trong thời gian này.
Đọc thêm:
+ Phân biệt bệnh sởi và bệnh thủy đậu bằng cách nào?
- Giai đoạn tiền triệu: Giai đoạn này kéo dài từ 5 - 15 ngày với những dấu hiệu đầu tiên khá tương đồng với cảm lạnh, trước khi nội ban phát triển, bao gồm sốt cao (có thể lên tới 40 độ C), chảy nước mũi hoặc nghẹt mũi, hắt hơi, ho (ho khan, ho không có đờm), mắt đỏ (viêm kết mạc), đau mắt hoặc chảy nước mắt, đôi khi kèm theo dấu hiệu sợ ánh sáng.
Khoảng 2 - 3 ngày sau khi các triệu chứng bắt đầu, người bệnh phát triển nhanh các hạt koplik (nội ban). Các đốm này được coi là chỉ số quan trọng để chẩn đoán sớm bệnh sởi. Chúng xuất hiện ở khoảng 80% các trường hợp mắc bệnh sởi.
Các hạt koplik được mô tả là những hạt trắng nhỏ li ti xuất hiện ở niêm mạc má phía bên trong miệng hoặc ngang răng hàm, kích thước khoảng 2 mm (mm) đến 3 mm, thường kèm theo xung huyết. Các hạt koplik xuất hiện nhanh mà cũng biến mất rất nhanh, thường là trong vòng từ 12 giờ tới 24 giờ.
- Giai đoạn phát ban: Phát ban sởi là triệu chứng nổi bật nhất của bệnh. Phát ban sởi xuất hiện vào khoảng 3 - 5 ngày sau những triệu chứng đầu tiên. Các nốt ban sởi có dạng dát sẩn, gồ lên trên bề mặt da người bệnh mà không gây đau, hầu như không ngứa và không sưng mủ. Thường thì ban sởi sẽ mọc theo thứ tự, bắt đầu từ vùng đầu, mặt, cổ rồi tới vùng ngực, lưng, cánh tay và cuối cùng là ban sởi mọc ở bụng, mông, đùi và xuống chân, bàn chân. Trong giai đoạn phát ban, người bệnh có thể bị sốt cao đột ngột lên tới 40 - 41 độ C.
Cho tới khi các nốt ban sởi mọc tới chân, người bệnh sẽ hết sốt và có hiện tượng "bay sởi" - nghĩa là các nốt ban sởi lặn dần.
Quá trình phát ban sởi có thể kéo dài khoảng 7 ngày. Khi ban sởi lặn có thể để lại những vết thâm trên da, gọi là dấu hiệu “vằn da hổ” kéo dài khoảng 10 ngày nữa.
Mặc dù phát ban là triệu chứng phổ biến của bệnh, những nhóm người sau đây có thể không bị phát ban sởi, gồm:
- Những người bị suy giảm miễn dịch.
- Trẻ sơ sinh vẫn còn kháng thể từ mẹ.
- Những người được tiêm immunoglobulin trước khi phát ban.
Có thể thấy, bệnh sởi phát triển qua 3 giai đoạn và sau đó các nốt ban biến mất, triệu chứng giảm dần rồi khỏi hẳn. Tuy nhiên, hãy thăm khám bác sĩ nếu bạn bị sởi và kèm theo các triệu chứng gồm:
- Sốt cao liên tục từ 39 độ C trở lên, đặc biệt là sốt cao nhưng không đáp ứng với thuốc hạ sốt như paracetamol hoặc ibuprofen (còn gọi là sốt cao khó hạ) kéo dài trên 48 giờ.
- Đau ngực hoặc tức ngực, khó thở, thở nhanh.
- Ho ra máu.
- Có dấu hiệu lú lẫn, buồn ngủ, ngủ li bì, mệt lả thậm chí là hôn mê.
- Co giật.
- Ban sởi đã bay (phát ban sởi toàn thân) nhưng vẫn còn sốt.
- Trẻ bị sởi bỏ ăn, bỏ bú, không bù nước được bằng đường uống.
Bệnh sởi có thể gây ra nhiều biến chứng, một vài trong số biến chứng sởi đó rất nghiêm trọng (Ảnh: ST)
Bệnh sởi có thể gây ra nhiều biến chứng, một vài trong số biến chứng sởi đó rất nghiêm trọng, có thể đe dọa tính mạng của người mắc, nên gia đình có người mắc bệnh sởi tuyệt đối không được chủ quan. Biến chứng của bệnh sởi có thể xảy ra ở mọi đối tượng. Các biến chứng bệnh sởi có thể kể đến như: Mù lòa, viêm não, viêm màng não, viêm tủy cấp, tiêu chảy nghiêm trọng và mất nước, nhiễm trùng thứ phát, viêm phổi và các nhiễm trùng đường hô hấp khác hoặc tử vong. Đối với phụ nữ mang thai, mắc sởi trong thai kỳ có thể gây sảy thai, sinh non hoặc suy dinh dưỡng ở trẻ sau sinh.
Nguy cơ gặp phải biến chứng do sởi cũng cao hơn nếu người mắc có hệ miễn dịch suy yếu (chẳng hạn như bị bệnh bạch cầu hoặc nhiễm HIV), trẻ sơ sinh, người trưởng thành trên 20 tuổi và phụ nữ mang thai.
Nhìn chung, bệnh sởi là bệnh lý dễ lây lan với tốc độ lây lan cao. Nếu bị bệnh, hãy nghỉ học hoặc nghỉ làm ít nhất 4 ngày kể từ khi phát ban đầu tiên xuất hiện đồng thời chú ý vệ sinh cá nhân sạch sẽ, tránh tiếp xúc gần với người khác, nhất là người chưa được chích ngừa sởi. Trong thời gian phát bệnh, cần đặc biệt chú ý chăm sóc và sớm phát hiện các dấu hiệu bệnh sởi chuyển nặng để khám bác sĩ càng sớm càng tốt. Tuyệt đối không áp dụng các bài thuốc chữa sởi truyền miệng mà chưa được kiểm chứng, tránh cản trở thời gian phục hồi, tăng nặng bệnh.
Nguồn dịch tham khảo:
3. Measles Symptoms and Complications