Răng khôn mọc kẹt - Cái nhìn chân thực từ chuyên gia

Răng khôn mọc kẹt - Cái nhìn chân thực từ chuyên gia
Răng không những không khôn, thậm chí còn mọc kẹt gây ra nhiều ảnh hưởng cho người bệnh. Xem ngay bài viết nếu bạn quan tâm tới sức khỏe của mình

1. Răng khôn là răng như thế nào?

Qua nhiều nghiên cứu thì các chuyên gia đưa ra kết luận: Răng khôn là răng mọc sau cùng trên cung hàm và còn được gọi là răng hàm lớn thứ ba, thường bắt đầu mọc từ tuổi 17 trở đi (nếu còn đủ chỗ sau răng số 7). 

Mỗi người sẽ có bốn răng khôn ở bốn góc hàm, nhưng cũng có người không thấy răng khôn mọc ra vì vẫn còn nằm trong xương hàm. Với bài viết này, chúng tôi sẽ chỉ đề cập tời răng khôn ở hàm dưới vì nó lảnh hưởng rất nhiều tới cuộc sống của con người do nó hay bị mọc kẹt. 

Hầu hết ai cũng sẽ có lúc phải mọc răng khôn, nhưng đã bao giờ bạn rơi vào tình trạng răng khôn bị mọc kẹt chưa, hãy cũng tìm hiểu về trường hợp này ngay sau đây.

Ảnh 1.

Răng không những không khôn, thậm chí còn mọc kẹt gây ra nhiều ảnh hưởng cho người bệnh. (Ảnh: Internet)

2. Răng khôn mọc kẹt có những loại nào?

- Thứ nhất là loại thường gặp nhất là mọc kẹt về phía gần, tức là trục của răng nghiêng về phía trước (về phía răng số 7).

- Thứ hai là răng khôn mọc kẹt theo chiều thẳng đứng.

- Thứ ba là nó bị mọc kẹt nghiêng về phía xa (phía sau).

- Thứ tư là mọc kẹt nằm ngang.

- Thứ năm răng khôn mọc kẹt trong niêm mạc miệng: răng bị lợi che phủ (còn gọi là lợi trùm).

- Cuối cùng là răng kẹt trong xương hàm - răng vẫn bị bọc kín bởi xương hàm và không mọc ra được.

3. Lý do gì khiến cho răng khôn mọc kẹt?

Lý do thường được biết đến nhiều nhất là do không đủ chỗ ở sau răng số 7, bởi vì răng số 7 thường mọc khoảng từ 12 đến 13 tuổi, trước răng khôn ít nhất là 5 năm và vì sự không tương xứng giữa kích thước răng hàm và kích thước của răng làm cho răng khôn là răng mọc sau cùng sẽ không có đủ chỗ.

Nhưng cũng có giả thuyết cho rằng: Vào thời đồ đá con người nhai thức ăn thô và cứng làm mòn răng không chỉ ở mặt nhai mà còn ở điểm tiếp xúc giữa các răng làm cho kích thước các răng nhỏ đi, do vậy khi răng khôn mọc lên thì vẫn đủ chỗ. 

Ảnh 2.

Lý do vì sao răng khôn mọc kẹt thường được biết đến nhiều nhất là do không đủ chỗ ở sau răng số 7 (Ảnh: internet)

Còn ngày nay, do chế độ ăn thức ăn mềm và nhiều dinh dưỡng nên răng ít hoạt động và mòn ít nên kích thước răng không bị nhỏ đi, thêm vào đó việc xương hàm ít hoạt động nên xương hàm nhỏ đi, kết hợp hai lý do này làm cho răng khôn ở người hiện đại khó mọc lên bình thường như trong giả thuyết. 

Con người thời tiền sử phải nhai thức ăn cứng và nhai nhiều nên răng có nguy cơ vỡ hoặc mất răng, mỗi khi có một răng mất đi thì răng phía sau sẽ di chuyển ra phía trước làm tăng kích thước khoảng trống cho răng khôn mọc lên. Con người thời nay ít có nguy cơ vỡ răng hay mất răng vì ít khi nhai cứng và được các nha sĩ chăm sóc.

3. Các nguy cơ của răng khôn mọc kẹt

- Hôi miệng và răng khôn dễ bị sâu do thức ăn bị dắt và sinh ra vi khuẩn

- Do răng khôn mọc kẹt có thể gây viêm nhiễm do thức ăn bị dắt không làm sạch được hay do sang chấn vào lợi. Viêm nhiễm làm bệnh nhân bị đau, lợi sưng tấy đỏ mềm, chảy dịch, có thể chảy mủ, nếu viêm nhiễm vùng răng khôn có thể gây sưng amidan, hạn chế há miệng, bệnh nhân khó nhai, nuốt, ảnh hưởng rất nhiều đến cuộc sống, làm giảm khả năng làm việc. Thậm chí một số người có thể bị biến dạng mặt hay viêm nhiễm có thể lan xuống cổ và trung thất (ở ngực).

- Ngoài ra, khi răng khôn mọc lệch về phía gần có thể làm sâu răng số 7 dẫn đến viêm tủy và vỡ răng số 7. Không những vậy, chứng răng khôn mọc kẹt còn tạo ra nang thân răng: nang có thể phát triển từ tổ chức phần mềm quanh răng khôn, làm tiêu hủy xương kế cận răng khôn, có thể ảnh hưởng đến răng bên cạnh.

5. Có nên nhổ răng khôn - răng khôn mọc kẹt hay không?

Theo nhiều ý kiến thì chỉ những răng khôn kẹt nào có nguy cơ gây ra viêm nhiễm hay sâu răng số 7 hoặc có nang quanh thân răng mới cần phải nhổ bỏ, một số trường hợp có thể cắt lợi trùm nếu răng khôn mọc thẳng và có đủ chỗ ở góc của hàm. 

Một số người cảm thấy sợ nhổ răng khôn và muốn dùng thuốc, tuy nhiên thuốc kháng sinh và giảm đau chỉ điều trị nhất thời chứ không có tác dụng lâu dài, do đó trong tương lai bệnh nhân sẽ bị đau lại.

Khi nhổ răng khôn: Bác sĩ hay nha sĩ cần tiêm thuốc tê cho bệnh nhân để mất cảm giác hoàn toàn ở quanh vùng răng khôn, một số trường hợp có thể  gây mê nếu răng khôn kẹt hoàn toàn trong xương hàm, chú ý là bệnh nhân không được ăn trong vòng 6 giờ trước khi gây mê. 

Ảnh 3.

Theo nhiều ý kiến thì chỉ những răng khôn kẹt nào có nguy cơ gây ra viêm nhiễm hay sâu răng số 7 hoặc có nang quanh thân răng mới cần phải nhổ bỏ (Ảnh: Internet)

Việc nhổ răng khôn bị kẹt bắt đầu với việc rạch và tạo vạt lợi để bộc lộ vùng phẫu thuật, răng khôn có thể được lấy ra nguyên vẹn hoặc cắt làm nhiều phần nếu kẹt vào răng số 7. Sau khi răng khôn được lấy ra, dìa xương ổ răng khôn cần được làm nhẵn và rửa sạch bằng nước muối, oxy già, betadin rồi khâu đóng vạt lợi, nếu là chỉ không tiêu thì sau 5 ngày bệnh nhân cần quay lại để cắt chỉ. Bệnh nhân cần được cắn gạc từ 15 cho đến 20 phút.

Tiếp theo, sau khi nhổ răng khôn, có hai trường hợp: Thứ nhất là nếu bệnh nhân được chích thuốc tê thì có thể về ngay sau khi nhổ răng xong kèm theo một đơn thuốc gồm thuốc giảm đau, chống sưng nề và có thể thêm kháng sinh nếu bác sĩ lo ngại nhiễm trùng. Nếu bệnh nhân được gây mê thì phải chờ tỉnh táo hoàn toàn và phải có người đưa về cũng kèm theo đơn thuốc như trên.

Bệnh nhân cần lưu ý là không được súc miệng quá mạnh trong vòng 24 giờ vì có thể làm bong cục máu đông dẫn đến làm chảy máu, sau khi ăn chỉ cần đánh răng và súc miệng nhẹ nhàng bằng nước muối nhạt, không nên dùng đồ ăn nóng và cay vì sẽ làm tăng phản xạ đau và dễ chảy máu, hoặc có thể ngậm nước đá để máu nhanh cầm. Bệnh nhân không được uống rượu và hút thuốc trong ngày đầu tiên vì sẽ làm chậm liền vết thương và dễ chảy máu.

Các khó chịu có thể xảy ra sau nhổ răng, như bệnh nhân có thể mệt mỏi do thuốc tê hay thuốc mê, có thể rỉ máu trong vòng 12 giờ từ vết mổ, là một lượng máu rất nhỏ nhưng có thể làm bệnh nhân lo lắng, có thể sưng nhẹ vùng góc hàm trong 4 ngày, có thể đau và cứng hàm lại trong vài ngày, nhưngnhững vấn đề này sẽ tự hết sau đó.

Trong một số ít trường hợp nhổ răng khôn có thể xảy ra biến chứng như: Dị ứng thuốc tê, thuốc mê dẫn đến xỉu, ngất và cần được điều trị bằng thuốc chống sốc. Bệnh nhân có thể bị nhiễm trùng do giữ vệ sinh răng miệng không tốt, đúng cách hoặc do bác sĩ không vô trùng, trường hợp này cần dùng kháng sinh. 

Bệnh nhân có thể bị tê bì nửa hàm dưới sau nhổ răng do tổn thương dây thần kinh răng bên dưới, để phòng tránh bác sĩ cần xem kỹ vị trí ống răng dưới trên phim X-quang để tránh làm tổn thương dây thần kinh. Ngoài ra với những bác sĩ không có kinh nghiệm có thể làm tổn thương răng số 7 bên cạnh.


Tác giả: Phương Thuận