Các loại vitamin D hay calciferol là loại vitamin tan trong dầu, không tan trong nước có thể tự tổng hợp ở trong cơ thể hoặc bổ sung từ thức ăn bên ngoài. Phân loại vitamin D bao gồm 1 nhóm từ vitamin D1 đến D5, trong đó vitamin D2 và D3 có hoạt tính mạnh nhất.
Phân loại vitamin D được chia thành 4 loại, từ D1 tới D5 trong đó chủ yếu là vitamin D2 và vitamin D3:
- Vitamin D1 (tên tiếng anh là Ergosterol) là tiền vitamin D2. Loại vitamin này không bị chiếu xạ và có thể được tìm thấy trong lúa mạch hay trong men bia. Ngoài ra chúng cũng được tìm thấy trong nấm ăn và một số loại nấm khác. Ergosterol không có hoạt tính vitamin và dưới tác dụng của tia cực tím chúng sẽ chuyển hóa thành vitamin D2.
- Vitamin D2 với tên tiếng anh là Ergocalciferol. Đây là lại vitamin được tổng hợp từ Ergosterol dưới tác dụng của tia cực tím. Chúng được hình thành khi có ánh sáng mặt trời chiếu vào. Vitamin D2 không có sẵn trong cơ thể con người nhưng chúng ta có thể bổ sung qua thức ăn hằng ngày. Vitamin D2 đặc biệt có nhiều trong gan cá.
- Vitamin D3 có tên tiếng anh là Cholecalciferol. Tiền chất của chúng là hợp chất 7-dehydro cholesterol được tạo thành ở da người, khi tiền chất này tiếp xúc với tia tử ngoại ở bước sóng 290-315 nm sẽ hoạt hóa thành vitamin D3. Vitamin D3 có hoạt tính mạnh hơn vitamin D2 và có thể được tìm thấy ở gan cá trong tự nhiên. Tuy nhiên, người ta thường thu được chúng bằng cách hoạt hóa hoặc chiếu tia cực tím vào tiền vitamin D3.
- Vitamin D4 (hay còn gọi là 22,23-dihydroergocalciferol) có tiền chất là 22,23 dihydro ergosterol. Vitamin D5 (tên tiếng anh là sitocalciferol) có tiền chất là 7-dehydro-β sitosterol. Cả 2 loại vitamin D4 và D5 đều có hoạt tính sinh học yếu hơn vitamin D2.
Để phân loại vitamin D2 và vitamin D3, chúng ta cần nhìn vào thành phần hóa học. Vitamin D2 còn được gọi là ergocalciferol và vitamin D3 có tên tiếng anh là cholecalciferol. Cấu trúc hóa học của vitamin D2 được xác định lần đầu tiên vào năm 1931. Sau đó tới năm 1935, cấu trúc hóa học của vitamin D3 đã được xác định và được chứng minh rằng chúng được tạo thành từ quá trình biến đổi của 7-dehydrocholesterol dưới tác động của tia cực tím.
Trong hóa học, các khác nhau của vitamin D là những secosteroid. Điều này có nghĩa là steroid bị gãy một trong những liên kết trong các vòng. Sự khác biệt về cấu trúc giữa vitamin D2 và vitamin D3 nằm trong các chuỗi bên của chúng. Chuỗi bên của vitamin D2 chứa một liên kết đôi giữa cacbon 22 và 23, và một nhóm methyl trên cacbon 24.
2.2.1. Vitamin D3 có ở đâu?
Vitamin D3 (cholecalciferol) là một dạng vitamin D được cơ thể tự nhiên tạo ra sau khi da tiếp xúc với ánh sáng mặt trời trực tiếp. Các chất bổ sung vitamin và thực phẩm có thể chứa Vitamin D3. Chẳng hạn như sữa tăng cường Vitamin D, cá béo, dầu gan cá và lòng đỏ trứng.
Tuy nhiên, cơ thể chỉ có thể thực sự sử dụng vitamin D3 cho đến khi nó được gan và thận thay đổi thành một dạng vitamin D hoạt động. Vì vitamin D3 được tìm thấy tự nhiên trong cơ thể con người, nó thường là loại vitamin D được ưu tiên bổ sung.
2.2.2. Vitamin D2 có ở đâu?
Vitamin D2 (ergocalciferol) cũng có thể được tìm thấy trong các chất bổ sung và đến từ các nguồn thực vật hoặc nấm được chiếu xạ. Hiện nay vẫn có những tranh cãi về việc nên sử dụng vitamin D2 như một chất bổ sung hay không vì nó không phải là dạng vitamin D tự nhiên do cơ thể tạo ra.
Bằng chứng cũng cho thấy cơ thể chúng ta có thể lưu trữ vitamin D3 tốt hơn vitamin D2 và vitamin D3 làm tăng nồng độ vitamin D trong máu nhanh hơn. Tương tự như vitamin D3, vitamin D2 vẫn cần kích hoạt bởi gan và thận.
2.2.3. Một dạng khác khi phân loại vitamin D cần được chú ý tới:
Có một dạng nữa được nhắc đến khi phân loại vitamin D là 25-hydroxyvitamin D hoặc 25 (OH) D (calcidiol), được sản xuất tự nhiên trong gan. Đây là dạng phân loại vitamin D dồi dào nhất được tìm thấy trong máu và là dạng được đo trong các xét nghiệm máu để xác định mức độ vitamin D trong cơ thể người.
1,25-hydroxy vitamin D (1,25 (OH) 2D) là dạng hoạt động của vitamin D trong cơ thể. Nó được tạo ra bởi thận từ Vitamin D 25 (OH) trong máu. Khi vitamin D hoạt động liên kết với thụ thể vitamin D (VDR), nó hoạt động như một công tắc bật một số hoạt động di truyền.