Có thể bạn sẽ cảm thấy ngạc nhiên khi biết rằng vitamin D hoàn toàn khác với hầu hết các loại vitamin khác. Nó là một loại hormone steroid được sản xuất từ cholesterol khi da tiếp xúc với ánh nắng mặt trời.
Tuy nhiên ngày nay, con người thường không tiếp xúc đủ với ánh nắng mặt trời, chính vì vậy cần phải bổ sung vitamin D từ chế độ ăn uống (hoặc thực phẩm chức năng) để có một sức khỏe tối ưu. Nhưng thật không may, chỉ một số ít thực phẩm trong tự nhiên chứa một lượng đáng kể vitamin D này dẫn đến việc thiếu hụt là rất phổ biến. Theo số liệu từ năm 2005-2006, 41.6% dân số Hoa Kỳ thiếu vitamin D.
Vitamin D là một nhóm các secosteroid tan được trong chất béo, có chức năng làm tăng cường khả năng hấp thu canxi và phosphat ở đường ruột. Điều này có nghĩa là nó hòa tan được trong chất béo/dầu và có thể được tích trữ trong cơ thể trong một thời gian dài.
Có hai dạng chính được tìm thấy trong chế độ ăn uống:
- Vitamin D3 (còn được gọi là cholecalciferol): Có trong một số thực phẩm có nguồn gốc động vật như cá béo và lòng đỏ trứng.
- Vitamin D2 (hay được gọi là ergocalciferol): Có trong một số loại nấm.
Trong hai loại kể trên, vitamin D3 (cholecalciferol) là loại được yêu thích nhiều hơn cả, bởi vì nó mang lại hiệu quả gấp đôi trong việc tăng lượng vitamin D trong máu so với dạng D2. Cơ thể cũng có thể tổng hợp vitamin D (đặc biệt là cholecalciferol) ở da, khi da được tiếp xúc đủ với ánh nắng mặt trời.
Vitamin D ban đầu không có tác dụng gì hết, nó cần phải trải qua hai bước chuyển hóa để trở nên có tác dụng.
Đầu tiên, vitamin D được chuyển hóa thành calcidiol tức là 25(OH)D trong gan. Đây là dạng mà vitamin lưu trữ trong cơ thể. Tiếp theo nó được chuyển thành calcitriol hoặc 1,25(OH)2D, chủ yếu là ở thận. Đây là dạng hormone steroid hoạt động của vitamin D. Calcitriol đi khắp cơ thể và đi vào nhân của tế bào. Ở đó nó tương tác với thụ thể gọi là thụ thể vitamin D (VDR), chúng được tìm thấy trong hầu hết các tế bào của cơ thể.
Khi dạng vitamin D hoạt động liên kết với thụ thể này, nó bật hoặc tắt gen, dẫn đến những thay đổi trong tế bào. Điều này cũng giống như sự hoạt động của hầu hết các hormone steroid khác.
Vitamin D còn được biết đến là có tác động đến nhiều tế bào khác nhau liên quan đến xương, ví dụ như nó ra lệnh cho các tế bào trong ruột hấp thụ canxi và phosphorus. Tuy nhiên, các nhà khoa học cũng đã mới tìm ra vitamin D tham gia vào các chức năng khác của cơ thể, bao gồm chức năng miễn dịch và chống lại ung thư.
Các công dụng khác của vitamin D có thể kể đến như:
- Cải thiện khả năng giữ thăng bằng của cơ thể, phòng ngừa các trường hợp té ngã, đặc biệt là với những người lớn tuổi.
- Củng cố các dây thần kinh thị giác, giúp phòng ngừa nguy cơ tổn thương thị lực và các vấn đề về mắt.
- Giảm đáng kể các cơn co thắt cơ hoặc chuột rút.
- Tăng cường tốc độ trao đổi chất, giảm khả năng hấp thụ chất béo của tế bào, vitamin D giúp ngăn ngừa tăng cân hiệu quả.
- Vitamin D còn được biết đến như là 1 chất giúp giảm đau xơ cơ hiệu quả.
- Bổ sung vitamin D thường xuyên có thể giúp phòng ngừa u xơ tử cung ở nữ, vì vitamin D có tác dụng ngăn ngừa sự tăng trưởng u xơ bất thường.
Vitamin D có trong những thực phẩm sau:
- Cá Nấm,
- Sữa tươi nguyên kem, sữa đậu nành.
- Dầu gan cá tuyết,
- Đậu phụ,
- Pho mát,
- Trứng,
- Hàu,
- Yến mạch,
- Trứng.
Cơ thể có khả năng tự tổng hợp vitamin D khi da tiếp xúc với ánh nắng mặt trời. Như vậy, tắm nắng là một cách khá dễ dàng khi muốn bổ sung vitamin D cho cơ thể.
Thời gian thích hợp để tắm nắng là vào hoảng 15 đến 20 phút trong thời gian từ 6h sáng đến 7h sáng mỗi ngày.
Bạn nên dùng vitamin D theo chỉ dẫn trên nhãn, hoặc theo chỉ dẫn của bác sĩ. Nên nuốt thuốc viên nang hoặc viên nén trong trường hợp sử dụng thuốc dạng viên. Không dùng nhiều hoặc ít hơn so với liều khuyến cáo của vitamin D.
Bạn có thể hỏi bác sĩ hoặc dược sĩ nếu có bất kỳ thắc mắc nào trong quá trình bổ sung bằng thuốc hoặc thực phẩm chức năng.