Những hiểu lầm phổ biến về bệnh lý viêm khớp dạng thấp

Tham vấn chuyên môn: - Khoa Nội Tổng hợp
Những hiểu lầm phổ biến về bệnh lý viêm khớp dạng thấp
Bệnh lý viêm khớp dạng thấp có tác động tới toàn thể cơ thể bệnh nhân, diễn ra trong thời gian lâu dài với nhiều biểu hiện khác nhau.

1.  Cứng khớp có phải là biểu hiện của viêm khớp dạng thấp?

Nhiều người cho rằng bệnh lý viêm khớp dạng thấp cũng tương tự như nhiều căn bệnh khác về khớp. Tuy nhiên, thực tế lại không phải như vậy.

Viêm khớp dạng thấp là căn bệnh mạn tính ảnh hưởng tới toàn bộ cơ thể con người, đặc biệt là các bộ phận liên quan tới khớp. Các khớp dễ bị ảnh hưởng nhất là các khớp nhỏ ở bàn chân và bàn tay. Một vài cơ quan khác cũng thường bị tổn thương như da, mắt, tim, phổi.

Cứng khớp buổi sáng là triệu chứng phổ biến với bệnh nhân viêm khớp dạng thấp. Tính trạng diễn ra vào buổi sáng và kéo dài trên 1 giờ. Một vài bệnh lý khác như thoái hóa khớp cũng khiến bệnh nhân bị cứng khớp. Tuy nhiên, chúng không kéo dài quá 30 phút. Ngoài biểu hiện cứng khớp, bệnh nhân còn có thể gặp những triệu chứng khác. Do vậy không thể dựa vào hiện tượng này để chẩn đoán người bệnh mắc viêm khớp dạng thấp.

Bệnh lý có các tổn thương đặc trưng như bào mòn xương dưới sụn, viêm màng hoạt dịch, phá hủy sụn và gây hủy hoại khớp. Các tổn thương này không được xử lý kịp thời sẽ khiến khớp bị mất chức năng vận động.

2. Mắc bệnh lý viêm khớp dạng thấp vì tác động bên ngoài

Những tác động bên ngoài nếu đủ mạnh sẽ khiến thể chất con người bị ảnh hưởng. Tuy nhiên, bệnh lý viêm khớp dạng thấp lại không nằm trong số đó.

Mỗi con người sẽ có một hệ thống miễn dịch gồm nhiều loại tế bào khác nhau. Hệ thống này có chức năng giúp cơ thể chống lại các mối nguy hại như nấm, vi khuẩn, virus,…

Với bệnh nhân viêm khớp dạng thấp, hệ thống miễn dịch sẽ phải hoạt động quá mức dẫn tới việc tự tấn công, chống lại các tế bào, cơ quan của cơ thể. Điều này khiến bệnh được xếp vào danh sách nhóm bệnh tự miễn (các bệnh xuất hiện do cơ thể tự tạo kháng thể chống lại chính các thành phần trong cơ thể).

Nguyên nhân trực tiếp dẫn tới căn bệnh này hiện vẫn chưa được xác định rõ. Dẫu vậy, hai yếu tố chính được chỉ ra là yếu tố di truyền và môi trường.

Nhiều nghiên cứu khoa học đã chứng minh mối liên quan giữa bệnh lý viêm khớp dạng thấp với một vài tác nhân gây bệnh như virus (rubella virus, cytomegalovirus, parvovirus) hay vi trùng (mycoplasma).

Vai trò của di truyền trong trong bệnh lý viêm khớp dạng thấp còn được thể hiện qua tỉ lệ mắc bệnh của các cặp sinh đôi đồng trứng cao hơn so với các cặp sinh đôi khác trứng. Bên cạnh đó, còn có mối liên hệ với các gen HLA-DR4 hay HLA-DR1.

3. Chỉ có người già mới mắc bệnh lý viêm khớp dạng thấp

Nghe tới viêm khớp, mọi người thường liên tưởng ngay với người già. Họ không biết rằng đối tượng mắc bệnh có thể là bất cứ ai xung quanh.

Trên thế giới, chỉ có khoảng 0,5% tới 1,5% dân số mắc bệnh. Tuy nhiên, mọi chủng tộc và lứa tuổi đều có nguy cơ mắc bệnh. Trong đó, lứa tuổi có tỉ lệ mắc bệnh cao nhất dao động từ 30 – 50 tuổi. Khả năng mắc bệnh của nữ giới cao hơn nam giới khoảng 2 – 3 lần.

4. Có thể chẩn đoạn bệnh lý viêm khớp dạng thấp dễ dàng

Chẩn đoạn bệnh lý viêm khớp dạng thấp không dễ dàng như nhiều người đồn thổi. Bệnh thường bắt đầu bằng nhiều triệu chứng mơ hồ như cứng khớp vào buổi sáng, đau khớp bất chợt.

Tuy nhiên, so với các loại bệnh viêm khớp khác, viêm khớp dạng thấp cũng có một vài đặc điểm chung:

- Đau khớp dai dẳng.

- Cơn đau kéo dài theo thời gian

- Thường xuyên cứng khớp vào buổi sáng.

- Khớp sưng, nóng, đỏ và đau buốt khi bị chạm.

- Xuất hiện cơn sốt cùng cơn đau khớp.

- Triệu chứng bệnh xuất hiện trên nhiều khớp, đối xứng.

- Ốm, cảm cúm, trong người cảm thấy khó chịu.

Khi phát hiện các triệu chứng trên, bạn cần nhanh chóng tới các trung tâm y tế để được tham khắm và chẩn đoán. Thông thường, các xét nghiệm sẽ có trách nhiệm kiểm tra:

- Máu của bạn có bị thiếu hay không?

- Kháng thể (Rheumatoid Factor) có hay không trong cơ thể? Đây là kháng thể xuất hiện trong quá trình sản sinh bệnh. Khoảng 80% bệnh nhân mang trong mình kháng thể này nhưng chỉ có 30% bệnh nhân phát hiện được trong giai đoạn mới phát bệnh.

- Kháng thể Peptide Cyclic Citrullinated (antiCCP): đây là protein có trách nhiệm trong việc gây ra bệnh. Khoảng 60 – 70% bệnh nhân được xác định mang trong mình kháng thể này.

- Mức độ viêm: các yếu tố như yếu tố C-reactive protein CRP hoặc tốc độ lắng máu VS. Bệnh càng nặng thì các yếu tố này càng cao.

-Trong giai đoạn đầu, chụp X-quang khớp thường không có triệu chứng gì bất thường. Tuy vậy, xét nghiệm này vẫn rất có ích trong quá trình chữa bệnh lâu dài.

Nói chung, bệnh lý viêm khớp dạng thấp không thể được chẩn đoán chỉ bằng một triệu chứng lâm sàng hoặc kết quả xét nghiệm. Nó là sự tổng hòa của tất cả các yếu tố kể trên.

Vậy nên, việc tự ý chữa trị bắt buộc phải tránh. Chỉ có sự giúp đỡ của các bác sĩ chuyên khoa mới thể giúp bạn phát hiện bệnh và nhanh chóng chữa trị thành công.

5. Điều trị bệnh lý viêm khớp dạng thấp không phức tạp

Đáng tiếc là cho tới giờ vẫn chưa có phương pháp điều trị hoàn toàn bệnh lý viêm khớp dạng thấp. Vì là một căn bệnh tự miễn và kép dài nên việc điều trị sẽ cần phải kéo dài.

Với sự phát triển của y học trong 30 năm gần đây, bệnh nhân có thể được hỗ trợ để cải thiện các triệu chứng và duy trì chức năng vận động. Để đạt thành quả này, bệnh nhân cần tiến hành điều trị nội khoa càng sớm càng tốt, tốt nhất là trước khi quá trình khớp bị hủy hoại bắt đầu.

6. Càng vận động càng dễ bị mắc bệnh

Trong thời đại hiện đại ngày nay, lười vận động trở thành tác nhân gây nhiều bệnh khác nhau. Dẫu vậy, nếu không vận động thường xuyên, cơ thể cũng sẽ trở nên yếu ớt và mắc bệnh. Điều này nhắc nhở mọi người cần phải có chế độ vận động hợp lý.

Với người đã mắc bệnh, vận động thích hợp cùng với thuốc và chế độ ăn uống giúp ích hữu hiệu trong quá trình chữa bệnh. Đồng thời, chúng sẽ giúp cải thiện chất lượng sống cũng như chức năng cơ bắp.

Bên cạnh đó, các hoạt động thể lực nặng, hoạt động tạo áp lực mạnh lên khớp cần phải hạn chế thực hiện. Khi bước vào đợt viêm khớp, bệnh nhân mắc bệnh lý viêm khớp dạng thấp cần nghỉ ngơi, giảm vận động theo ý kiến của bác sĩ.



Tác giả: Quang Anh