Lao họng thường là thứ phát sau lao phổi hoặc lao da, gồm nhiều thể như lao kê họng, lao loét bã đậu ở họng, luput họng và lao họng nguyên phát. Các thể bệnh có biểu hiện và tiên lượng nặng nhẹ khác nhau.
Lao họng thường là thứ phát sau lao phổi hoặc lao da
Bệnh lao họng được chia làm 4 loại chính:
- Lao kê
- Bệnh lao họng mạn tính thể loét bã đậu luôn thứ phát sau lao phổi. Bệnh nhân là những người đang bị lao phổi đã được xác nhận là lao phổi thể hang.
- Luput họng luôn xuất hiện sau luput mặt hoặc luput mũi.
- Bệnh lao họng nguyên phát thường biểu hiện không rõ rệt, chỉ giống như viêm amiđan thông thường.
Biểu hiện của bệnh lao họng cũng được chia ra theo sự phân loại:
- Lao kê họng hiện ít gặp. Thông thường, bệnh nhân đang bị lao phổi. Vi khuẩn lao lan tràn vào họng bằng bệnh lao họng nguyên phát thường biểu hiện không rõ rệt, chỉ giống như viêm amidan thông thường đường máu khi lao phổi bước vào thời kỳ trầm trọng hoặc lao kết hợp một số bệnh làm suy giảm miễn dịch (như cúm, sởi, sau đẻ, nhiễm HIV).
Bệnh lao họng thường có biểu hiện khó nuốt
Bệnh nhân thường ở độ tuổi 20-40, có biểu hiện sốt, nhiệt độ không đều, ra mồ hôi như tắm, khó thở, nuốt đau nhói lên tai, không ăn được và hay bị sặc lên mũi khi uống nước. Người bệnh mệt mỏi nhiều và gầy sút nhanh. Trong họng có những hạt như hạt kê, lổn nhổn, tập trung thành từng mảng xù xì, dày cộp, khi vỡ ra để lại những vết loét nông rất bẩn.
- Lao họng mạn tính thể loét bã đậu luôn thứ phát sau lao phổi.
Biểu hiện: ho khạc nhiều, gầy sút, có vi khuẩn lao trong đờm, chụp phổi thấy tổn thương hang lao... Bệnh nhân đau họng, khó nuốt, khàn tiếng, thường sặc lỏng, nước bọt chảy ra rất nhiều, tình trạng nuốt đau ngày càng tăng. Niêm mạc họng tái nhợt, bị xước nham nhở với những vết loét nông, đáy xám, rất bẩn.
Hạch cổ lổn nhổn thành từng chuỗi, hoặc sưng to thành khối, có khi bị nhuyễn hóa và rò mủ. Bệnh diễn biến chậm, nhưng nếu không điều trị kịp thời, tổn thương sẽ ăn mất lưỡi gà, amidan, lan xuống sàn miệng, niêm mạc má. Bệnh nhân suy kiệt dần và chết vì lao phổi.
- Luput họng luôn xuất hiện sau luput mặt hoặc luput mũi. Bệnh nhân thường là phụ nữ, không có tiền căn lao phổi.
Khám họng thấy lổn nhổn những hạt lấm tấm màu vàng xám, những vết loét nông bờ không đều hoặc các vết loét sâu, đầu nhỏ như đầu kim. Vết loét ít xuất tiết. Vùng bị loét về sau có sẹo dúm hoặc dính niêm mạc hầu, lưỡi gà bị biến dạng và dính vào thành họng, gây rối loạn một số chức năng của họng.Tiên lượng bệnh thường không nặng, ít khi tử vong trừ một số ít trường hợp tiến triển thành lao kê họng.
Ho khạc nhiều cũng là biểu hiện của lao họng
- Bệnh lao họng nguyên phát thường biểu hiện không rõ rệt, chỉ giống như viêm amidan thông thường. Người bệnh xanh xao, ăn uống kém, niêm mạc nhợt nhạt, hạch cổ có tính chất của hạch lao... Để chẩn đoán xác định bệnh, cần dựa vào một số xét nghiệm cận lâm sàng như: tốc độ lắng máu, phản ứng Mantoux, sinh thiết nơi tổn thương và hạch cổ có hình ảnh điển hình của lao.
Lao họng được điều trị theo phác đồ phòng chống lao chung, kết hợp vệ sinh mũi họng thật tốt bằng một số thuốc (như thuốc súc họng kiềm nhẹ để làm thay đổi pH của họng) hoặc bằng tia cực tím, tia lửa điện nguội, đốt cote điện...