Mới đây, Khoa Bệnh lây đường hô hấp và hồi sức truyền nhiễm, Bệnh viện Trung ương Quân đội 108 tiếp nhận bệnh nhân Lưu Văn N., 53 tuổi, sống tại quận Long Biên, Hà Nội.
Bệnh nhân vào viện ngày thứ 3 của bệnh với biểu hiện sốt cao liên tục 39-40 độ, rối loạn ý thức, liệt chân trái, đái dầm, sau đó nhanh chóng đi vào hôn mê, liệt tứ chi, suy hô hấp, trụy tim mạch phải thở máy, dùng thuốc vận mạch duy trì huyết áp.
Xét nghiệm máu và dịch não tủy khẳng định bệnh nhân bị viêm não Nhật Bản . Hình ảnh cộng hưởng từ cho thấy tổn thương dạng viêm lan tỏa toàn bộ vùng chất xám bán cầu 2 bên.
Bệnh nhân sau đó xuất hiện rối loạn thần kinh thực vật nghiêm trọng, tiên lượng nặng, nguy cơ tử vong , gia đình xin cho bệnh nhân ra viện về chăm sóc giai đoạn cuối tại nhà vào ngày thứ 10 của bệnh.
Trước đó, trong 2 tháng 6-7/2018, Khoa Bệnh lây đường hô hấp và hồi sức truyền nhiễm cũng tiếp nhận 6 bệnh nhân người lớn. Trong đó, có 3 chiến sĩ thuộc một đơn vị đóng quân tại tỉnh Điện Biên được chẩn đoán xác định viêm não Nhật Bản.
Tuy cả 6 trường hợp này đều được cứu sống ra viện, nhưng có 4 bệnh nhân phải mang di chứng tàn phế: rối loạn ý thức, hôn mê, liệt mềm tứ chi nằm một chỗ, động kinh, thở máy kéo dài hoặc thở qua lỗ mở khí quản.
Theo TS. Vũ Viết Sáng – Khoa Bệnh lây đường hô hấp và hồi sức, Viện Lâm sàng các bệnh truyền nhiễm, viêm não Nhật Bản là một bệnh nhiễm trùng cấp tính của hệ thần kinh trung ương, gây tổn thương các tế bào thần kinh.
Tên gọi viêm não Nhật Bản có nguồn gốc từ một vụ dịch xảy ra năm 1924 tại Nhật Bản với hơn 6000 người mắc bệnh, nhiều người tử vong. Năm 1933, các nhà khoa học Nhật Bản đã xác định được tác nhân gây bệnh, đặt tên là virus viêm não Nhật Bản, một loại Arbovirus nhóm B (họ Togaviridae, giống Flavivirus).
Nguồn bệnh chủ yếu là các loài chim hoang dã (diệc, liếu điếu…) và gia súc (lợn, ngựa..). Chim và lợn là các ổ chứa virus viêm não Nhật Bản trong tự nhiên. Muỗi hút máu của chim và lợn có chứa virus, sau đó đốt người sẽ truyền virus sang người.
Đến nay, đây là con đường duy nhất lây nhiễm viêm não Nhật Bản. Hiện chưa ghi nhận lây truyền từ người sang người. Dù nhiễm virus song lợn không bị bệnh mà đóng vai trò là kho chứa, duy trì virus trong thiên nhiên.
Nhiều loài muỗi có khả năng truyền bệnh, nhưng chủ yếu là 2 loài: Culex Tritaeniorhynchus và Culex vishnui. Cả 2 loài muỗi này hoạt động mạnh vào lúc chập choạng tối và thường sống ở ruộng lúa nước.
Mọi lứa tuổi đều có thể mắc bệnh viêm não Nhật Bản, song chủ yếu là trẻ em dưới 15 tuổi. Nhóm nguy cơ cao nhất là trẻ từ 2-6 tuổi, chiếm 75% tổng số trẻ mắc. Người lớn ít mắc bệnh do đa số đã có miễn dịch mắc phải.
Tại Việt Nam, bệnh viêm não Nhật Bản được ghi nhận lần đầu tiên vào năm 1952. Các ổ dịch thường nằm ở những vùng trồng lúa nước kết hợp chăn nuôi lợn hoặc vùng trung du bán sơn địa có trồng nhiều hoa quả (nhãn, vải..) và nuôi lợn. Bệnh có thể diễn ra quanh năm nhưng cao điểm nhất từ tháng 5 - 7.
Thời gian ủ bệnh trung bình là 1 tuần (từ 5-14 ngày). Bệnh thường khởi phát đột ngột với biểu hiện sốt cao 39-40 độ, đau đầu, buồn nôn và nôn. Bệnh diễn biến nặng lên rất nhanh. Có trẻ đang khỏe mạnh bỗng nhiên sốt cao, sau đó xuất hiện nôn, cứng gáy, tăng trương lực cơ, co giật, rối loạn ý thức, lờ đờ, lú lẫn rồi hôn mê ngay trong vòng 1-3 ngày đầu.
Giai đoạn toàn phát kéo dài từ ngày 3-4 đến ngày 6-7 của bệnh. Virus xâm nhập vào nhu mô não tủy gây hủy hoại các tế bào thần kinh. Các triệu chứng của giai đoạn khởi phát không thuyên giảm mà tăng dần.
Giai đoạn này diễn ra ngắn, nổi bật là các triệu chứng tổn thương não chung và tổn thương thần kinh khu trú: rối loạn ý thức, lú lẫn, có khi hôn mê sâu, liệt từng phần hoặc toàn bộ tứ chi, động kinh, múa giật, múa vờn, rối loạn cơ tròn, rối loạn thần kinh thực vật như vã nhiều mồ hôi, da lúc đỏ, lúc tái, rối loạn nhịp thở, tăng tiết trong lòng khí quản, mạch nhanh và yếu, huyết áp tụt ảnh hưởng đến các chức năng sống.
Bệnh nhân tử vong chủ yếu gặp trong giai đoạn này. Những bệnh nhân vượt qua được thời kỳ này thì tiên lượng tốt hơn.
Giai đoạn lui bệnh bắt đầu từ tuần thứ 2 trở đi. Sốt giảm dần và hết vào khoảng ngày thứ 10 nếu không có bội nhiễm vi khuẩn khác. Bệnh nhân từ hôn mê có thể tỉnh lại dần dần, không còn những cơn co cứng, hết nôn và đau đầu.
Bệnh có tỉ lệ tử vong cao và để lại những di chứng nặng nề. Ước tính, có khoảng 25 - 35% bệnh nhân viêm não Nhật Bản tử vong và khoảng 50% bệnh nhân có các di chứng thần kinh, tâm thần.
Bệnh nhân có thể xuất hiện các biến chứng như: viêm phế quản, viêm phổi, viêm phế quản - phổi do bội nhiễm; viêm đường tiết niệu do thông tiểu hoặc đặt sonde dẫn lưu; loét điểm tỳ đè và viêm tắc tĩnh mạch do nằm lâu và rối loạn dinh dưỡng.
Di chứng có thể gặp là bại hoặc liệt tay chân, mất ngôn ngữ, múa giật, múa vờn, động kinh, parkison, rối loạn phối hợp vận động, giảm trí nhớ nghiêm trọng, rối loạn tâm thần hoặc hôn mê, rối loạn giao cảm, rối loạn chuyển hoá, nghe kém hoặc điếc...
Cho đến nay vẫn chưa có thuốc điều trị đặc hiệu bệnh viêm não Nhật Bản.
Các điều trị hỗ trợ nhằm duy trì chức năng sống, hạn chế tổn thương não thứ phát, điều chỉnh rối loạn chức năng các cơ quan, dự phòng biến chứng như: hạ sốt, an thần, chống co giật, chống phù não, hồi sức hô hấp và tuần hoàn, cân bằng nước-điện giải, cân bằng kiềm toan, kiểm soát đường máu, kháng sinh chống bội nhiễm, nuôi dưỡng tích cực, săn sóc chống loét.
Dự phòng bệnh viêm não Nhật Bản chủ yếu dựa vào tiêm phòng vaccine . Vaccine phòng bệnh viêm não Nhật Bản được sản xuất lần đầu tiên vào năm 1954.
Vaccine được tiêm cho mọi lứa tuổi, ưu tiên cho trẻ từ 1-5 tuổi trong vùng có dịch lưu hành. Cần tiêm 3 liều để tạo miễn dịch cơ bản, mỗi liều 0,5mL (liều thứ 2 cách liều thứ nhất 1 tuần, liều thứ 3 sau liều thứ hai 1 năm). Sau đó cứ 3 năm tiêm một liều để duy trì miễn dịch bền vững.
Ngoài ra cần áp dụng các biện pháp dự phòng không đặc hiệu khác như: diệt muỗi, nằm màn, tránh muỗi đốt, vệ sinh môi trường ngoại cảnh, vệ sinh chuồng trại, vệ sinh cá nhân.