Một vết loét miệng - là loại bệnh nhỏ, phát triển trên mô mềm trong miệng, tại nướu răng. Và có thể là biểu hiện của nhiều bệnh như loét áp-tơ (dân gian gọi là nhiệt miệng), loét do virus herpes, loét do vi khuẩn gây bệnh viêm nướu hoại tử lở loét và cũng có thể là loét do ung thư…
Trong các bệnh kể trên thì loét áp-tơ là bệnh lý phổ biến nhất của niêm mạc miệng, thường gặp nhất người trẻ, nữ nhiều hơn nam. Bệnh loét áp-tơ tuy không gâty ra nguy hiểm, đa số có thể tự khỏi trong 7 đến 10 ngày nhưng nó lại mang tính tái phát, gây đau cản trở việc ăn uống, nói thậm chí là thói quen sinh hoạt của bệnh nhân.
Căn bệnh Loét áp-tơ không có nguyên nhân rõ ràng. Một số nhà nghiên cứu chỉ ra rằng loét áp-tơ có thể gây ra bởi một phản ứng của hệ miễn dịch, khi mà hệ thống miễn dịch của cơ thể bị ảnh hưởng bởi các yếu tố như:
- Chấn thương, chẳng hạn như răng giả không phù hợp làm cắn má, chấn thương từ răng cắn trúng môi má lưỡi khi ăn nhai, bàn chải lông ứng, chải răng quá mạnh, chấn thương miệng do thể thao.
- Những thay đổi hormone vì có một số phụ nữ thấy rằng tình trạng loét miệng xảy ra trong chu kỳ kinh nguyệt.
- Một số người hút thuốc thấy xuất hiện loét miệng chỉ sau khi ngừng thuốc.
- Có thể là thiếu sắt, hoặc thiếu một số vitamin (như vitamin B12 và acid folic) trong một số trường hợp.
- Có thể do yếu tố di truyền trong một số trường hợp.
- Căng thẳng, lo lắng hay stress.
- Bị nhiễm trùng, nhiễm virus, nhiễm nấm.
- Hay một số bệnh lý toàn thân cũng có vai trò như bệnh dạ dày, khiếm khuyết về huyết học, bệnh dị ứng.
Bệnh loét miệng - loét áp-tơ có 3 dạng chính
Đây là loại phổ biến nhất (80% trường hợp). Một hay vài vết loét hình bầu dục, nhỏ hơn 1cm, màu vàng nhạt, xung quanh bị viêm đỏ, xuất hiện môi, má, lưỡi, ít thấy ở nướu dính và vân khẩu cái cứng. Vết loét này làm bệnh nhân đau. Tổn thương kéo dài từ 7-10 ngày và sau đó lành mà không để lại một vết sẹo.
Loại loét này xảy ra trong khoảng 10% trường hợp. Vết loét có kích thước lớn hơn 1cm, đau đớn dữ dội. Tổn thương kéo dài từ hai tuần đến vài tháng, nhưng sẽ chữa lành và để lại một vết sẹo.
Với dạng herpes thì loét này xảy ra khoảng 10% trường hợp. Đây đều là những vết loét có kích thước nhỏ, khoảng 1-2 mm. Gồm rất nhiều vết loét tập trung lại. Không liên quan đến virus herpes.
Loét áp-tơ thông thường sẽ thường tự khỏi sau 7-10 ngày mà không cần điều trị. Tuy nhiên, nếu bệnh nhân có loét áp-tơ khổng lồ hoặc vết loét gây đau đớn, ăn uống khó khăn, loét tái đi tái lại với tần suất nhiều, gây ảnh hưởng đến cuộc sống và sinh hoạt của bệnh nhân thì sẽ có chỉ định điều trị của bác sĩ.
Điều trị loét áp-tơ sẽ không thể khỏi hẳn mà là chỉ giảm bớt thời gian bị loét, giảm số lần tái phát và giảm các triệu chứng khi đang bị loét.
Các thuốc được sử dụng với mục đích ức chế hoạt động của men hủy mô liên kết (dung dịch Tetracyclin hoặc Chlorhexidine súc miệng); kích thích và tăng hoạt động tạo ra mô liên kết (vitamin C); các thuốc thoa hoặc uống để giảm đau; thuốc điều hòa miễn dịch tại chỗ hoặc toàn thân.
- Tránh thức ăn cay và chua cho đến khi vết loét lành lại.
- Có thể súc miệng với nước muối ấm, pha loãng 2 lần một ngày.
- Giữ cho miệng của bạn luôn sạch sẽ.
- Chế độ ăn thông thường, đa dạng, đầy đủ năng lượng và đủ các nhóm chất dinh dưỡng.
- Đến bác sĩ ngay khi có các dấu hiệu vết loét bất thường lớn, khi vết loét lan rộng, vết loét không lành sau ba tuần, đau không thể chịu đựng mặc dù tránh các thức ăn kích thích, có sốt cao.
- Cần duy trì vệ sinh răng miệng tốt bằng cách sử dụng chỉ tơ nha khoa hàng ngày và đánh răng sau bữa ăn cũng có thể giúp đỡ.
- Đánh răng phải nhẹ nhàng, sử dụng bàn chải có lông mịn, cẩn thận không để trượt với bàn chải.
- Tránh nói chuyện trong khi đang nhai thức ăn.
- Giảm stress và biết thư giãn.
- Chế độ ăn uống cân bằng và hợp lý, giàu vitamin A, C, trái cây tươi và rau quả.
- Khám nha sĩ định kỳ 6 tháng một lần.
Cẩn trọng với tổn thương ung thư miệng miệng biểu hiện dưới dạng loét:
Vết loét ung thư có đặc điểm sau mà bệnh nhân cần chú ý:
- Thường kéo dài không lành hơn ba tuần.
- Thường xuất hiện ở lưỡi và sàn miệng, nhưng thỉnh thoảng có thể xuất hiện ở một nơi khác trong miệng.
- Thường có liên quan với người trên 40 tuổi có tiền sử hút thuốc lá nặng hoặc uống rượu.
- Có biểu hiện là bờ không đều, gồ cứng, nhô cao, đáy xuất huyết, nền cứng dính.
Bác sĩ Lê Nguyễn Khánh Duy