Ở những người cao tuổi thường xuất hiện những dấu hiệu cảnh báo hệ tim mạch đang già hóa ở tim, mạch máu, thành phần sinh hóa của máu và huyết áp,..
Hệ tim mạch cũng không nằm ngoài quá trình lão hóa của cơ thể (Nguồn: internet).
Khi lớn tuổi, nếu không có bệnh lý nào kèm theo thì khối lượng của cơ tim thường giảm đi, hệ tuần hoàn nuôi tim của giảm hiệu lực và làm ảnh hưởng đến dinh dưỡng của cơ tim.
Về mặt lâm sàng, những biến đổi ở tim trái sẽ dễ nhận biết hơn tim phải. Nhịp tim sẽ chậm hơn do tính linh hoạt của xoang tim đã giảm. Khi tuổi càn cao, sẽ xuất hiện hiện tượng suy giảm tim tiềm tàng, giảm dẫn truyền trong tim, lướng máu cung cấp cho các cơ quan, nhất là tim và não cũng bị giảm dần.
Ở người cao tuổi, đường kính của các động mạch nhỏ ngoại biên sẽ hẹp lại, dẫn tới giảm lượng máu cung cấp cho các mô tế bào, làm tăng sức cản và hậu quả là tim phải tăng sức bóp nên tiêu hao nhiều năng lượng hơn.
Ngoài ra, tình trạng xơ cứng động mạch chủ cũng rất dễ cảy ra. Tĩnh mạch giảm trương lực và độ đàn hồi vì vậy dẽ bị giãn ra. Và sự tuần hoàn của mao mạch giảm hiệu lực do mất một số mao mạch, đồng thời tính phản ứng bù trừ của những mao mạch còn lại cũng giảm đi.
Những biến đổi này có liên hệ mật thiết với những biến đổi ở hệ tim mạch. Khi tuổi càng cao, nhóm bêta lipoprotein càng tăng, đồng thời nhóm alpha lipoprotein sẽ giảm. Hoạt tính của men lipase phân hủy lipoprotein cũng giảm dần, Lượng lipid toàn phần, triglycerid, axít béo không este hóa, cholesterol trong máu tăng. Khi đưa những thực phẩm có chứa mỡ vào cơ thể dẫn tới máu tăng đông, hệ thông tiêu fibrin không tăng theo và khiến các tiểu cầu dễ dính vào nhau. Đặc điểm này sẽ càng rõ ràng hơn khi xuất hiện hiện tượng tăng huyết áp.
Huyết áp động mạch ở người cao tuổi khỏe mạnh sẽ không vượt quá giới hạn cho phép của huyết áp tối đa và huyết áp tối thiểu lần lượt là 29mmHg và 8,6mmHg. Tuy nhiên, khi chỉ số huyết áp tối đa đạt quá 160mmHg và huyết áp tối thiểu quá 95mmHg thì đây không còn là hiện tượng bình thường nữa.
Đây là những cơn đau thắt ở vùng tim do cơ tim bị thiếu máu và gây ra tình trạng mất cân bằng tạm thời giữa sự cung cấp và nhu cầu oxy cần thiết. Nhưng, tình trạng này có thể phục hồi một cách tự nhiên.
Cơn đau thắt ngực khởi phát do gắng sức, trời tiết trở lạnh hoặc ăn no với những triệu chứng như khó thở nhanh và nông, đánh trống ngực, hồi hộp, buồn nôn, vã mồ hôi, có trường hợp đi tiểu nhiều. Vị trí cơn đau thường ở giữa phía sau xương ức. Những cơn đau này thường là đau co thắt đè nặng hay cảm giác bị ép, đôi khi đau rát và gây ngạt thở. Cơn đau thường lan lên vùng cổ, xương hàm, vai hoặc có thể lan ra cánh tay, bờ trong của cẳng tay,.... Thời gian những cơn đau thường ngắn (chỉ khoảng 2-5 phút) và sau đó mất dần sau khi ngưng gắng sức hoặc sử dụng thuốc giãn mạch vàng.
Nhồi máu cơ tim xuất hiện khi dòng máu nuôi tim bị tắc nghẽ một phần hoặc toàn phần trong một thời gian đủ lâu để làm cho cơ tim bị tổn thương hoặc bị chết. Có nhiều nguyên nhân gây ra hiện tượng này như do cục máu đông trong động mạch vành làm tắc mạch máu. Thông thường động mạch vành là nơi cung cấp máu và oxy để nuôi tim, nhưng khi mạch máu này bị tắc thì tim sẽ thiếu oxy và tế bào cơ tim sẽ chết. Hoặc do các mảng xơ vữa làm tắc động mạch vành.
Những triệu chứng thường gặp nhất của hiện tượng này là đau nhói vùng ngực trước tim rồi lan ra vai, tay, cổ, hàm hoặc lan ra sau lưng. Hoặc có đôi khi có cảm giác ngực như bị bóp chặt, Cảm giác đau có thể chỉ là cảm giác đau vùng thượng vị, ăn không tiêu nên rất dễ nhầm lẫn với đau dạ dày. Những triệu chứng đi tho gồm lo lắng, ho, mệt, chóng mặt, đau đầu, buồn nôn, hồi hộp, thở dốc, đổ mồ hôi. Đặc biệt, ở người cao tuổi đôi khi có thể xuất hiện trường hợp nhồi máu cơ tim yên lặng, tức là không xuất hiện triệu chứng.
Tai biến mạch máu não hay còn gọi là đột quỵ xảy ra khi nguồn cung cấp máu cho não bị gián đoạn hoặc sụt giảm nghiêm trọng, dẫn tới thiếu hụt oxy và dinh dưỡng mô tế bào não, và chỉ trong vài phút các tế bào não sẽ bắt đầu chết.
Tai biến mạch máu não là căn bệnh vô cùng nguy hiểm mà người cao tuổi hay gặp phải (Nguồn: internet).
Tai biến mạch máu não cần được xử trí khẩn cấp, và việc điều trị sớm là rất quan trọng bởi nó có thể giảm thiểu tổn thương não và các biến chứng tiềm tàng khác. Để ngăn ngừa bệnh lý này có thể sử dụng biện pháp kiểm soát các yếu tố nguy cơ như cao huyết áp, choresterol cao, hút thuốc lá,....
Về triệu chứng, các triệu chứng thường gặp là khó đi lại, chóng mặt đột ngột, mất thăng bằng, mất sự phối hợp, nói và hiểu có sự nhầm lẫn, nói khó, không thể lặp lại một câu nói đơn fianr, bị tê liệt một bên cơ thể hay khuôn mặt, một bên miệng có thể bị trễ xuống khi cố gắng cười, một hoặc cả hai mắt đột nhiên bị mờ hoặc tối hoặc nhìn đôi, bất ngờ bị nhức đầu kèm theo chóng mặt, nôn mửa, thay đổi ý thức.
Ở người lớn bình thường, các bác sĩ thường xác định tăng huyết áp bằng huyết áp tâm thu lớn hơn hoặc bằng 140mmHg và huyết áp tâm trường bằng hoặc lớn hơn 90mmHg. Phương pháp này tuy đơn giản nhưng chỉ số huyết áp lại không hoàn toàn ổn định và huyết áp thường thay đổi theo tuổi tác và giới tính.
Phần lớn người bị tăng huyết áp không có triệu chứng nổi trội mà chỉ có một số triệu chứng thường gặp như choáng, hồi hộp, mệt, khó thở, mờ mắt,... cho đến khi phát hiện bệnh. Ngoài ra để xác định tình trạng tăng huyết áp với các chỉ số cụ thể cần đo huyết áp đúng cách.
Xơ vữa động mạch là hiện tượng xơ hóa thành động mạch trung bình và động mạch lớn với những biểu hiện chủ yếu gồm sự lắng động mỡ và các màng tế bào tại lớp bao trong thành động mạch.
Các triệu chứng của xơ vữa đông mạch trải qua 3 giai đoạn:
- Giai đoạn tiềm tàng: Ở giai đoạn này chưa có biểu hiện bệnh lý.
- Giai đoạn lâm sàng: Xuất hiện triệu chứng thiếu máu của cơ quan điển hình.
- Giai đoạn biến chứng các cơ quan: Ở giai đoạn này do thiếu máu cục bộ dẫn tới các cơ quan bị biến chứng. Và tùy vào các cơ quan bị tổn thương mà xuất hiện các triệu chứng.
Việc chẩn đoán xơ vữa động mạch không có một tiêu chuẩn nào rõ ràng mà căn cứ vào các dấu hiệu lâm sàng và kết quả thăm dò cận lâm sàng, sự hiện diện của các yếu tố nguy cơ, tình trạng động mạch ngoại biên, kết quả xét nghiệm bilan lipid, siêu âm doppler,...
Tâm phế mạn là bệnh lý xảy ra do sự phình đại của tâm thất phải sau những rối loạn, bệnh lý của hệ hô hấp. Loại bệnh lý này thường do một bệnh lý khác bên trong chủ mô phổi. Trong một vài trường hợp có thể do những bệnh lý của tuần hoàn phổi.
Về triệu chứng, bệnh tâm phế mạn trong giai đoạn đầu có các triệu chứng như viêm phế quản mãn tính, khí phế thũng do thuốc lá, hen phế quản kéo dài, giãn phế quản. Nếu không được điều trị triệt để, sau mỗi lần tái phát, bệnh sẽ ngày một nặng thêm dẫn tới những bệnh phổi hạn chế như lao xơ phổ, giãn phế nang, mập phì, gù vẹo cột sống, dị dạng lồng ngực, dày dính màng phổi, bệnh mạch phổi. Sau đó sẽ chuyển sang giai đoạn tăng áp lực động mạch phổi và giai đoạn cuối là suy tim.
Đây là bệnh lý xảy ra khi các xung điện trong tim có vai trò dẫn truyền tạo nhịp tim không hoạt động đúng làm tim đập quá nhanh, quá chậm hoặc đột ngột. Rối loạn nhịp tim thường có dấu hiệu như tim đập không đều, đánh trống ngực, đau ngực, khó thở, hoa mắt, chóng mặt, ngất xỉu,.... Đặc biệt, bệnh nhân cần lưu ý tình trạng rung thất, một loại rối loạn nhịp tim có thể gây chết người xảy ra do tim đập nhanh, xung điện truyền dẫn thất thường.
Suy tim là trạng thái bệnh lý do cơ tim không còn khả năng cung cấp máu theo nhu cầu của cơ thể. Trạng thái của bệnh này chia ra làm các giai đoạn như người bệnh thường không có biểu hiện bệnh lý nhưng khi tình trạng suy tim đã tiến triển thì sẽ xuất hiện một số dấu hiệu như: hụt hơi, khó thở (khi gắng sức và cả khi nghỉ ngơi) khiến người bệnh ngủ không ngon giấc, thậm chí mất ngủ; mệt mỏi, bị suy nhược cơ thể; tức ngực, ho khan do máu bị ứ lại tại phổi; hoa mắt, chóng mặt, có thể ngất xỉu; nhịp tim nhanh, hồi hộp, trống ngực ngay cả khi nghỉ ngơi, bị phù và tăng cân ở mắt cá chân, bàn chân. Ngoài ra, còn có các triệu chứng như đi tiểu đêm, đầy hơi, buồn nôn hoặc chán ăn…