Thủy đậu là một bệnh rất dễ lây lan do virus varicella zoster gây ra. Trước khi có vắc-xin vào năm 1995, bệnh thủy đậu đã phổ biến, gây bệnh cho khoảng 4 triệu người Mỹ (chủ yếu là trẻ em) mỗi năm; làm trung bình 10.500 - 13.000 ca nhập viện và gần 150 ca tử vong hàng năm. Đó là lí do có rất nhiều câu hỏi thường gặp về bệnh thủy đậu được đặt ra.
Ngày nay, những con số kể trên về bệnh thủy đậu đã giảm ít nhất 90%. Tuy nhiên, bệnh thủy đậu vẫn là một mối đe dọa sức khỏe, đặc biệt là đối với những người chưa được chủng ngừa.
Đã qua rồi cái thời mà tất cả trẻ em đều bị thủy đậu, vì đã có thuốc chủng ngừa căn bệnh này. Trước khi có vaccine, khoảng 4 triệu người ở Mỹ sẽ phát bệnh mỗi năm, dẫn đến hơn 10.000 trường hợp nhập viện và lên đến gần 150 trường hợp tử vong.
Trung tâm Kiểm soát Dịch bệnh Hoa Kỳ (CDC) khuyến cáo trẻ em nên chủng ngừa bệnh thủy đậu khi được 1 tuổi và tiêm nhắc lại từ 4 đến 6 tuổi. Đối với những người từ 13 tuổi trở lên chưa từng mắc bệnh thủy đậu hoặc đã chủng ngừa bệnh thủy đậu, CDC khuyến cáo nên tiêm hai liều thuốc chủng ngừa; mỗi liều cách nhau ít nhất 28 ngày.
Đây là câu hỏi thường gặp về thủy đậu mà rất nhiều bà mẹ có con nhỏ thắc mắc. Đáp án của câu hỏi này là có, mặc dù đã tiêm phòng thủy đậu, bạn vẫn có thể phát bệnh. Chế độ tiêm vắc-xin 2 liều được khuyến cáo có hiệu quả 90% trong việc ngăn ngừa bệnh thủy đậu.
Ngoài ra, việc tiêm phòng còn giúp ích trong việc bảo vệ những người trong cộng đồng không thể tiêm phòng, chẳng hạn như phụ nữ đang mang thai hoặc người có hệ miễn dịch bị tổn thương.
Mất khoảng 10 - 21 ngày sau khi tiếp xúc với vi rút varicella-zoster để người bệnh gặp phát ban – dấu hiệu đặc trưng của bệnh thủy đậu. Khoảng thời gian mà một người bị bệnh thủy đậu có thể lây lan cho người khác bắt đầu từ 1-2 ngày trước khi họ phát ban cho đến khi tất cả các mụn nước đóng vảy.
Trong hầu hết các trường hợp, những người mắc bệnh thủy đậu sẽ được miễn dịch suốt đời. Tuy nhiên, vi rút vẫn còn trong cơ thể ngay cả khi bệnh đã khỏi. Ở một số ít trường hợp, một số người có thể bị thủy đậu nhiều lần, đặc biệt nếu hệ thống miễn dịch của họ bị suy yếu.
Thuốc chủng ngừa thủy đậu thường được tiêm hai liều để có hiệu quả tối ưu. Liều đầu tiên thường được tiêm cho trẻ từ 12-15 tháng tuổi và liều thứ hai từ 4-6 tuổi. Trẻ lớn hơn và người lớn cũng có thể được chủng ngừa.
Các lợi ích của vắc-xin bao gồm:
Phòng ngừa bệnh thủy đậu: Hầu hết những người được chủng ngừa đều tránh được việc mắc bệnh thủy đậu. Nếu một người nào đó đã được chủng ngừa mà vẫn bị bệnh thủy đậu, bệnh thường ở dạng nhẹ hơn nhiều và không có biến chứng nặng.
Phòng ngừa bệnh zona: Zona là một biến chứng về sau của bệnh thủy đậu, bệnh gây ra bởi sự tái hoạt của vi rút varicella zoster (vi rút này vẫn tồn tại trong hệ thần kinh của người bệnh trong nhiều năm sau khi nhiễm trùng). Nghiên cứu chỉ ra rằng, những người được chủng ngừa bệnh thủy đậu ít có nguy cơ bị bệnh zona hơn.
Bảo vệ cộng đồng: Khi tỷ lệ dân số được chủng ngừa một loại vi rút như bệnh thủy đậu cao, điều này tạo ra "miễn dịch bầy đàn" để bảo vệ những người không thể tiêm vắc-xin, chẳng hạn như trẻ sơ sinh hoặc những người bị rối loạn tự miễn.
Bệnh thủy đậu lây truyền từ người này sang người khác qua không khí, chẳng hạn như khi người bị thủy đậu ho hoặc hắt hơi. Các phần tử vi rút cũng có thể bắt nguồn từ mụn nước thủy đậu và có thể lây lan cho người nào chạm vào chất dịch từ mụn nước này.
=>> Tìm hiểu thêm thông tin lây truyền bệnh thủy đậu tại ĐÂY!
Câu trả lời là không. Trái với quan niệm dân gian là cần kiêng nước và kiêng gió ở bệnh thủy đậu, các chuyên gia y tế khuyến nghị người bệnh nên được nghỉ ngơi trong môi trường thoáng đãng, có gió. Đồng thời, nên cho người bệnh tắm sạch sẽ để tránh nhiễm trùng da.