Có bao nhiêu dạng đột quỵ, dạng nào có nguy cơ tử vong cao nhất?

Tham vấn chuyên môn: - Khoa Nhi - Trung tâm Tim mạch Bệnh viện E
Có bao nhiêu dạng đột quỵ, dạng nào có nguy cơ tử vong cao nhất?
Đột quỵ là căn bệnh cực nguy hiểm, có thể dễ dàng gây ra tổn hại tới tính mạng của người bệnh. Do đó, để có được cách điều trị cho hiệu quả thì cần phải biết được đột quỵ có những loại nào? và thông tin đó sẽ có đủ trong bài viết này.

Khi gặp một người bị đột quỵ, điều đầu tiên ta cần biết là người đó mắc loại đột quỵ nào, có nặng không, tương lai có hồi phục đầy đủ không. 

Nhưng nói chung tổn thương trong não càng nặng, sự mất mát chức năng cơ thể càng nhiều và sâu sắc, thì đột quỵ càng nặng.

Các loại Đột quỵ thường gặp

1. Phân theo nguyên nhân đột quỵ

Theo trường hợp này có 03 loại như sau:

Huyết khôi: Thường gặp ở xơ vữa động mạch, có thể mạch não bị lấp một phần hay toàn bộ. Bệnh xảy ra ít đột ngột. Người bệnh ít bị hôn mê. Liệt thường nhẹ kiểu liệt vỏ - dưới vỏ.

Nghẽn mạch: Thường xảy ra ỏ người có tiền sử mắc bệnh tim nhất là bệnh van hai lá, van tỉm nhân tạo, phẫu thuật tim, có khi do cả nhồi máu cơ tim và huyết khôi (cục máu đông tách ra cục nghẽn).

Xuất huyết: Bao gồm cả hai trường hợp nêu trên là nghẽn mạch và huyết khối gây ra nhũn não (nhồi máu não, tắc mạch não...), nghĩa là mô não bị ngừng cấp máu đột ngột. Bệnh nhân bị bệnh rất đột ngột, hôn mê sâu với các triệu chứng phù não và tăng áp nội sọ, liệt hoàn toàn và đồng đểu kiểu bao trong.

Người bị xuất huyết não thường nặng và có thể chết ngay. Người bệnh và thầy thuốc đều muốn biết loại hình mắc, nhưng biết về loại hình cũng chẳng giúp được gì thêm cho họ. Cái cần lúc này là xử lý, là cứu lây mạng sống, nên phải dựa vào triệu chứng mà chẩn đoán để đưa ra được biện pháp đôi phó chinh xác và kịp thời.

2. Phân theo hậu quả của mô não

Gồm hai loại là: Nhồi máu não và xuất huyết não

Nhồi máu não: Mô tả một vùng mô não đã bị hoại tử do ngừng cấp máu đột ngột vì tấc mạch. Tổ chức ở đây đã bị chết và đột quỵ đã xảy ra. Mô não chết có thể theo sau là một huyết khôi hoặc tắc nghẽn mạch và thường được gọi chung là nhồi máu huyết khối - nghẽn mạch đến bao trùm cả 02 nguyên nhân mà tách bạch riêng ra nhiều khi rất khổ. Từ nhồi máu não còn để chỉ sự tương phản với xuất huyết não do vỡ mạch.

Xuất huyết não: Mô tả có một ố chảy máu khá lớn trong não (thường đường kính trên 03cm) hoặc ở thân não (đường kinh trên 1,5cm), do một động mạch vỡ ra, gây nát hoặc chèn ép thần kinh. Nếu ở người trẻ thường vở do một động mạch dị dạng thì ở người lớn tuổi thường vở do một cơn tăng huyết áp (tầng thường xuyên do xơ vữa động mạch), hoặc tầng đột ngột.

3. Phân theo mạch tổn thương

Mạch cảnh, mạch đốt sống - nền.

Như ta đã biết, có 04 động mạch cấp máu cho não. Hai động mạch ở phía trước gọi là động mạch cảnh trong. Hai động mạch ở phía sau gọi là động mạch đốt sống, vì chúng đi qua cột sống để lên sau gáy, đến sọ não thì hợp làm một gọi là động mạch nền (còn gọi là mạch đốt sông - nền) vì nằm ở nền sọ. Sau đó động mạch nền lại tách ra các nhánh, nối liền với động mạch cảnh, tạo thành vòng nối mà ta thường gọi là  vòng nổi Willis.

4. Phân theo gọi tên đột quỵ theo vị trí

Não được chia ra làm hai phần chính: Phần đầu tiên là thân não - phần này chỉ chiếm khoảng 10% não, khá nhỏ, nhưng lại là nơi có nhiều nút sôngsống còn của cơ thể. Mọi thông tin không những phải qua đây để lên xuống não, mà đây còn là trung tâm điều hòa nhịp thỏ, nhịp tim cũng như các chức năng khác. Phần thứ hai là hai bán cầu não, lấp đầy vòm sọ và nhô ra trước.

Đột quỵ thân não: Thường rất nặng vì ảnh hưởng nhiều đến các chức năng quan trọng. Mọi đột quỵ thân não đều do thiếu cấp máu đi vào nền não - động mạch ĐS-N. Vì là vùng rất nguy hiểm và tế nhị nên ìt khi dám thực hiện phẫu thuật.

Đột quỵ ổ khuyết: Là một đột quỵ nhỏ, xảy ra trong não sâu. Thường làm trông một vùng nhỏ đơn độc trong não, trên lâm sàng sẽ thấy chỉ liệt một tay chẳng hạn. Các đột quỵ khác cũng có thể gọi là đột quỵ ổ khuyết theo tên của vùng não bị tổn thương.

5. Phân theo thời gian kéo dài của triệu chứng

Cơn thiếu máu não thông qua: Nghĩa là đột quỵ là tai biến do thiếu cấp máu não, dẫn đến hậu quả hoặc chết hoặc là để Ịại các di chứng trẽn 24 gỉờ. Còn chứng thiếu máu não thông qua lại kéo dài dưới 24 giờ và không chết, khỏng để lại di chứng. Một vài người, về sau có thể tái phát thành cơn đột quỵ chứ không còn la thiếu máu não thông qua nữa.

Tổn thương thần kinh do thiếu máu não có hồi phục: Bệnh nhân của loại bệnh này có thể yếu chi, mất cảm giác tay, chân hay nhìn không rõ, tồn tạỉ sau 24 giờ, nhưng sẽ hồi phục trong vòng từ 3 - 6 tuần, cũng không để lại di chứng.

Thiếu máu não thực thụ: Còn gọi là đột quỵ hoàn toàn, một nhánh mạch não hoãn toàn bị tắc, nào tổn thương và khống hồi phục

 6. Phân theo gọi tên đột quỵ theo di chứng

Liệt nửa người cấp tính: Là một thuật ngữ được dùng khi đột quỵ có liệt nửa người. Đa số bệnh nhân (khoảng 4/5) đột quỵ có một vải dạng liệt kiểu này. Nêu là liệt không rổ, người ta thưởng dùng thuật ngữ yếu chỉ (hémỉparésỉe) hay yếu nửa người, hoặc liệt nhẹ nửa người.

Đột quỵ không  liệt nửa người: Là một thuật ngữ dùng khi có đột quỵ mà không liệt tay, hoặc chân, hoặc liệt nửa thân.

Cũng có một số phân loại mô tả: Ví dụ, một số bác sĩ nói về đột quỵ phức tạp và đột quỵ gián đơn: đột quy phức tạp là các đột quỵ gồm có liệt và có thêm ít nhất một vấn đề khác nữa như mất nói chẳng hạn. Đột quỵ tiến triển và đột quỵ ổn định


Tác giả: LH