Mặc dù có một số trường hợp mắc ung thư buồng trứng từ khi còn khá sớm nhưng các chuyên gia vẫn đưa ra kết quả nghiên cứu cho thấy nguy cơ ung thư buồng trứng với phụ nữ dưới 40 tuổi khá hiếm gặp. Đa số phụ nữ từ 55 - 64 tuổi hoặc bước vào giai đoạn mãn kinh có khả năng mắc bệnh nhiệu hơn cả.
Báo cáo SEER từ năm 2007 - 2011 tỷ lệ chị em mắc bệnh ung thư buồng trứng trong khoảng từ 55 - 64 tuổi chiếm 23.6%. Và cũng theo báo cáo, tỷ lệ kéo dài tuổi thọ khi điều trị ung thư buồng trứng cũng phụ thuộc vào các nhóm tuổi, trong đó bệnh nhân có thể tử vong cao nhất là vào khoảng từ 75 - 84 tuổi (chiếm tỷ lệ 25.8%).
Kinh nguyệt và cho con bú cũng là một trong những yếu tố có thể thúc đẩy hoặc kìm hãm nguy cơ ung thư buồng trứng. Cụ thể như:
- Phụ nữ trước 12 tuổi có kinh nguyệt lần đầu sẽ có nguy cơ ung thư buồng trứng xảy đến cao hơn so với những người bình thường khác hoặc có kinh nguyệt muộn hơn bình thường.
- Phụ nữ mãn kinh (sau 50 tuổi) nguy cơ mắc bệnh cao hơn.
- Phụ nữ không sinh con hoặc mang thai muộn cũng khiến nguy cơ ung thư buồng trứng cao hơn so với những người phụ nữ sinh con đầu lòng trước 26 tuổi.
- Tiền sử gia đình: Nếu trong gia đình có chị, em gái, mẹ, bà mắc bệnh ung thư buồng trứng thì nguy cơ mắc bệnh của bạn cũng sẽ cao hơn những người bình thường.
- Đột biến gen: Các nghiên cứu cho thấy nếu tìm ra gen đột biến (BRCA1, BRCA2) trong bất kể thành viên nào của gia đình thì nguy cơ ung thư buồng trứng của những người phụ nữ khác trong gia đình đó sẽ cao hơn. Mang đột biến gen BRCA cũng làm tăng nguy cơ ung thư vú.
- Những phụ nữ đã từng được chẩn đoán mắc bệnh ung thư vú cũng có nguy cơ cao bị ung thư buồng trứng.
- Thừa cân - béo phì: Phụ nữ béo phì, đặc biệt chỉ số khối cơ thể (BMI) từ 30 trở lên, cũng có nguy cơ mắc ung thư buồng trứng.
- Vô sinh hoặc sử dụng liệu pháp thay thế hormone sau thời kỳ mãn kinh (đặc biệt là nếu bạn chỉ dùng estrogen) trong năm năm trở lên cũng có khả năng cao mắc bệnh.
Các nghiên cứu về ung thư buồng trứng đã chỉ ra một số cách giảm nguy cơ mắc bệnh như sau:
- Sử dụng thuốc tránh thai hàng ngày tối thiểu 3-6 tháng. Tuy nhiên cần phải cân nhắc vì phương pháp này có thể ảnh hưởng tới hormone và sinh sản của phụ nữ.
- Cho con bú ít nhất 13 tháng.
- Thắt ống dẫn trứng có thể làm giảm nguy cơ ung thư buồng trứng xuống 60%.
- Cắt bỏ tử cung làm giảm nguy cơ xuống 30% so với thông thường.
- Ở những phụ nữ có những đột biến gen BRCA, loại bỏ buồng trứng có thể làm giảm rủi ro mắc bệnh khoảng 80-90%.