Dịch hạch là bệnh truyền nhiễm cấp tính gây ra bởi trực khuẩn yersinia pestis. Mầm bệnh chủ yếu trú ngụ trong các loài động vật gặm nhấm, phổ biến nhất là chuột, thông qua vết đốt của bọ chét, rệp để truyền bệnh sang người.
Trực khuẩn Yersinia pestis gây bệnh dịch hạch (Ảnh: Internet)
Sau thời gian ủ bệnh khoảng 1-15 ngày, người bị trực khuẩn dịch hạch tấn công bắt đầu có các triệu chứng bệnh đầu tiên với các biểu hiện nhiễm trùng, nhiễm độc và nổi hạch. Cùng lúc, bệnh nhân thường bị sốt cao liên tục, mắt đỏ sung huyết, có thể nôn mửa, tiêu chảy, tiểu ít.
Đối với các trường hợp bệnh nặng, bệnh nhân có thể bị mê sảng, hạch sưng ở bẹn, nách, cổ. Ngoài ra. bệnh nhân có thể đau ngực, ho khan, thở nhanh, tím tái và bệnh tiến triển nặng thành nhiễm khuẩn huyết.
Con đường lây lan dịch hạch (Ảnh: Internet)
Để chẩn đoán xác định bệnh, cần tiến hành phân lập tìm vi khuẩn dịch hạch trong da, hạch, máu, đờm bằng phương pháp nhuộm, nuôi cấy, xét nghiệm chẩn đoán huyết thanh và các xét nghiệm giúp đánh giá tình trạng nặng của bệnh.
Việc điều trị bệnh dịch hạch cần được tiến hành càng sớm càng tốt (Ảnh: Internet)
Ngay từ khi có các triệu chứng đầu tiên, cần lập tức nhập viện để tiến hành điều trị bệnh dịch hạch. Các biện pháp điều trị bệnh dịch hạch được tiến hành càng sớm thì càng đem lại hiệu quả cao.
Trong thời gian chờ kết quả xét nghiệm trong phòng thí nghiệm, người có các triệu chứng của bệnh có thể được chỉ định sử dụng kháng sinh nhóm aminoglycosides (streptomycin, gentamycin), nhóm tetracyclines (tetracyclin, doxycycline), nhóm fluoroquinolones (ciprofloxacin, levofloxacin), nhóm sulfonamides (trimethoprim-sulfamethoxazole) và chloramphenicol. Việc lựa chọn thuốc được bác sĩ chỉ định dựa trên chức năng thận, độ tuổi, khả năng dung nạp và tác dụng phụ của thuốc. Cụ thể:
Kháng sinh nhóm aminoglycosides (streptomycin, gentamycin) được cho là loại thuốc điều trị bệnh dịch hạch hiệu quả nhất, có thể sử dụng một mình hoặc kết hợp với các loại kháng sinh khác. Đây là nhóm kháng sinh phù hợp với đối tượng bệnh nhân là phụ nữ có thai và trẻ nhỏ. Tuy nhiên, thuốc có thể gây ra một số tác dụng phụ đối với bệnh nhân có chức năng thân bị suy giảm.
Các nhóm kháng sinh được dùng để điều trị bệnh dịch hạch (Ảnh: Internet)
Kháng sinh nhóm tetracyclines có thể sử dụng kết hợp với aminoglycosides hoặc dùng đơn độc. Tuy nhiên, các loại kháng sinh nhóm này không nên sử dụng để điều trị bệnh dịch hạch cho đối tượng trẻ nhỏ dưới 8 tuổi và phụ nữ có thai vì có khả năng làm giảm sự phát triển của răng và xương.
Kháng sinh nhóm fluoroquinolones bao gồm ciprofloxacin và levofloxacin (mới được FDA Hoa Kỳ cấp phép cho sử dụng để điều trị dịch hạch). Tuy nhiên, các loại kháng sinh nhóm này có thể làm ảnh hưởng tới sự phát triển của sụn và khớp.
Kháng sinh chlopheramphenicol có thể dùng kết hợp hoặc thay thể cho kháng sinh nhóm aminoglycosides trong một số trường hợp. Tuy nhiên, chloramphenicol có thể gây ra tác dụng phụ nguy hiểm là suy tủy và hội chứng xám ở trẻ nhũ nhi.
Bệnh nhân dịch hạch cần được điều trị cách ly (Ảnh: Internet)
Bên cạnh đó, việc điều trị bệnh dịch hạch còn kết hợp với biện pháp điều trị các triệu chứng: giảm đau, hạ sốt, chống suy đa phủ tạng, hồi sức tích cực, chích rạch và tháo mủ (đối với thể hạch),...
Bệnh nhân mắc bệnh dịch hạch cũng cần được điều trị cách ly và tiến hành các biện pháp chống dịch để tránh làm bệnh lây lan.
Mọi phương pháp và thuốc dùng để điều trị bệnh dịch hạch cần tuân thủ theo sự chỉ định của bác sĩ để hạn chế tối đa các biến chứng của bệnh.