Phẫu thuật cận thị đang ngày càng trở thành phương pháp được lựa chọn phổ biến bởi hiệu quả, thời gian hiệu lực sau điều trị kéo dài và mức độ an toàn ngày càng được nâng cao. Tuy nhiên, không phải trường hợp cận thị nào cũng có thể được chỉ định phẫu thuật. Ở một số đối tượng đặc biệt, phẫu thuật cận thị được xem là không thích hợp, hiệu quả kém hoặc thậm chí là tăng khả năng gây biến chứng sau phẫu thuật rất cao.
7 Nhóm đối tượng không nên phẫu thuật cận thị:
Không ít người bệnh do gặp phải những phiền phức do cận thị gây nên trong cuộc sống và công việc, học tập,... nên đã tìm đến các cơ sở nhãn khoa với mong muốn được phẫu thuật càng sớm càng tốt.
Tuy nhiên, chính việc phẫu thuật cận thị diễn ra quá sớm khi mà mức độ cận thị còn chưa ổn định, độ cận còn tăng nhanh trong một khoảng thời gian ngắn thì nguy cơ tái cận sau khi phẫu thuật là rất cao. Mà hơn nữa, khi đã can thiệp phẫu thuật cận thị một lần thì khả năng để phẫu thuật lại lần thứ 2 sẽ trở nên nhỏ hơn rất nhiều.
Do đó, người cận thị được khuyên rằng chỉ nên phẫu thuật cận thị khi mà mức độ cận đã ổn định ở mức tăng nhỏ hơn 0,75 diop/năm. Những người cận thị có mức tăng độ cao hơn tiêu chuẩn này thì chưa nên phẫu thuật ngay mà nên chờ đến khi cận thị ổn định thì mới tiến hành phẫu thuật.
Nếu bạn chưa hiểu rõ về Độ cận thị là gì? Độ cận như thế nào là nặng, như thế nào là nhẹ? Thì nên đọc bài viết này.
Phẫu thuật cận thị thực chất chính là bác sĩ sẽ dùng các phương tiện đặc biệt (dao vi phẫu, tia laser) để điều chỉnh lại bề dày giác mạc giúp giác mạc có độ khúc xạ như mong muốn làm ảnh rơi đúng trên võng mạc.
Chính vì thế, đối với các trường hợp giác mạc của người bệnh quá mỏng thì việc tiếp tục làm mỏng đi giác mạc trong phẫu thuật nhằm điều trị cận thị sẽ gây nhiều nguy cơ biến chứng sau phẫu thuật như chói sáng, vạt giác mạc lành kém,... Độ mỏng tối thiểu của giác mạc để có thể tiến hành phẫu thuật cận thị an toàn được quy định là 460nm. Những bệnh nhân có giác mạc mỏng hơn 460nm bị chống chỉ định với phẫu thuật cận thị.
Trong cuộc phẫu thuật cận thị, số lượng mô của giác mạc bị lấy đi sẽ phụ thuộc vào mức độ cận của bệnh nhân. Bệnh nhân bị cận càng cao thì số lượng mô giác mạc bị lấy đi sẽ càng nhiều và giác mạc sẽ trở nên càng mỏng manh.
Khi lấy đi quá nhiều mô đến khiến cho giác mạc mỏng dưới mức độ an toàn cần có thì có thì cuộc phẫu thuật chẳng những không đem lại hiệu quả cao mà nó còn làm gia tăng nhiều biến chứng khác nhau sau phẫu thuật (nhìn chói sáng,...).
Vì thế, bệnh nhân không nên tiến hành phẫu thuật khi có độ cận quá cao (lớn hơn 10 diop) để đảm bảo hiệu quả điều trị và an toàn. Hiện nay, có rất nhiều Các phương pháp phẫu thuật cận thị cho từng nhóm người. Bạn nên hỏi ý kiến bác sĩ để được tư vấn phù hợp.
Những đối tượng bệnh nhân cận thị mắc các bệnh lý mãn tính toàn thân như cao huyết áp, đái tháo đường cũng là những đối tượng không nên thực hiện phẫu thuật cận thị.
Những bệnh lý mãn tính toàn thân mà bệnh nhân đang mắc phải như tăng huyết áp, đái tháo đường gây khó khăn hơn cho cuộc phẫu thuật, làm tăng nguy cơ biến chứng gây mê và sau mổ (đái tháo đường làm tăng nguy cơ nhiễm trùng sau mổ và chậm lành vết thương),...
Do đó, những người mắc các bệnh lý toàn thân mãn tính chỉ nên phẫu thuật cận thị khi nằm trong các trường hợp bắt buộc phải phẫu thuật ngay để đảm bảo thị lực cho mắt và cận có sự thăm khám, đánh giá đầy đủ các nguy cơ từ bác sĩ trước cuộc phẫu thuật nhằm đưa ra phương pháp xử lý thích hợp.
Những bệnh lý cấp tính đang xảy ra tại mắt như chấn thương mắt, viêm loét giác mạc, viêm màng bổ đào,... đều là những chống chỉ định của phẫu thuật cận thị.
Những bệnh lý cấp tính tại mắt làm thay đổi tính chất của giác mạc và các cấu trúc liên quan đến giác mạc. Điều này làm tăng các nguy cơ sau phẫu thuật chẳng hạn như hiệu quả phẫu thuật không mong muốn, nhiễm trùng hậu phẫu, xuất huyết,...
Nên đối với các trường hợp có các bệnh lý cấp tính tại mắt đang diễn ra thì người bệnh cần tiến hành điều trị ổn trước khi tiến hành phẫu thuật cận thị.
Sự thay đổi nội tiết tố trong giai đoạn thai nghén có thể làm cận thị diễn tiến bất thường, và có thể khiến phẫu thuật cận thị không đạt hiệu quả như mong muốn hay thậm chí là khiến bệnh nhân bị giảm thị lực nhiều hơn trước kia.
Ngoài ra, việc sử dụng các loại thuốc nhỏ mắt trước, sau phẫu thuật cùng với đó là quá trình gây mê, gây tê khi phẫu thuật,... cũng có thể gây nên các tác động tiêu cực lên thai nhi hoặc em bé thông qua sữa mẹ. Vì vậy, việc phẫu thuật cận thị ở những đối tượng đang mang thai hoặc đang cho con bú (dưới 6 tháng) là không được khuyến cáo.
Lứa tuổi thích hợp nhất để tiến hành phẫu thuật cận thị được khuyến cáo là những đối tượng từ 18 đến 45 tuổi. Còn những người ở lứa quá trẻ (dưới 18 tuổi) hoặc quá lớn (trên 45 tuổi) thì không nên phẫu thuật cận thị.
Điều này là bởi nếu phẫu thuật khi còn quá trẻ hoặc quá cao tuổi thì mức độ cận trở nên kém ổn định hơn do mắt đang phát triển nhanh chóng cùng với sự phát triển của cơ thể hoặc đang lão hóa nhanh cùng với sự tăng dần của tuổi cao. Điều này làm gia tăng nguy cơ tái cận, cải thiện thị lực kém sau phẫu thuật,...
Qua đây có thể khẳng định, không phải với bất kỳ ai thì phẫu thuật cận thị cũng đều là phương pháp thích hợp để sử dụng. Do đó, hãy luôn tham khảo kỹ ý kiến của bác sĩ trước khi phẫu thuật cận thị để đảm bảo hiệu quả điều trị và sự an toàn tốt nhất cho đôi mắt của bạn.