Ung thư tủy giai đoạn cuối là giai đoạn bước vào thời kỳ khối u có những biễn biến phức tạp. Khi đó, các tế bào ác tính đã di căn tới các bộ phận khác trên cơ thể, gây ra tình trạng vô cùng nguy hiểm cho người bệnh, làm suy giảm chức năng cơ thể nghiêm trọng.
Ở ung thư tủy giai đoạn cuối, các tế bào ung thư xâm lấn ra ngoài tủy tới các cơ quan khác trên cơ thể. Lúc này, bệnh nhân ung thư tủy giai đoạn cuối sẽ gặp phải các triệu chứng sau đây:
– Đau cột sống thắt lưng, đau xương sọ, xương ức, các cơn đau diễn ra liên tục mà thuốc giảm đau không có tác dụng. Nhiều trường hợp bệnh nhân có thể bị gãy xương tự phát.
– Rối loạn chức năng thần kinh như rối loạn vận động, rối loạn cảm giác, rối loạn cơ tròn (tiểu khó, táo bón), co cứng cơ, teo cơ,..
– Cơ thể mệt mỏi, suy nhược, chán ăn, sụt cân, dễ nhiễm trùng; nổi hạch ở cổ, nách, bẹn; gan và lá lách to ra, dễ chảy máu dưới da, chảy máu chân răng và mũi hoặc những triệu chứng di căn như nhức đầu, động kinh, suy giảm thị lực, nôn ói,…
– Nếu khối u chèn ép tủy sống sẽ gây ra những triệu chứng ung thư tủy giai đoạn cuối như: đau, tê bì chân tay, tiểu không tự chủ.
– Bệnh có thể gây ra biến chứng nhiễm khuẩn phổi, nhiễm khuẩn đường tiết niệu. Biến chứng thần kinh gặp ở khoảng 40% ở bệnh nhân do chèn ép tủy gây liệt 2 chi dưới, liệt dây thần kinh sọ. Biến chứng máu dẫn đến tình trạng suy tủy, chảy máu, tăng axit uric do suy thận và hóa trị.
– Người bệnh u tủy thường bị tổn thương thận như teo ống thận, xơ hóa tổ chức kẽ thận, hoại tử ống thận cấp, xơ hóa cầu thận dạng hạch, viêm cầu thận tăng sinh, lắng đọng canxi trong kẽ thận,…
Nhìn chung, ung thư tủy là bệnh có thể chữa khỏi tuy nhiên với ung thư tủy giai đoạn cuối đây là điều vô cùng khó khăn. Các bác sĩ sẽ dựa vào tình trạng sức khỏe của bệnh nhân, mức độ di căn của tế bào ác tính và đưa ra phương án điêu trị phù hợp.
Tuy nhiên, đối với bệnh nhân ung thư tủy giai đoạn cuối, các phương pháp điều trị chỉ có tác dụng cải thiện chất lượng sống cho họ và giảm nhẹ các triệu chứng.
- Phương pháp xạ trị: Sử dụng các tia năng lượng cao như X-quang, tia gamma để tiêu diệt tế bào ung thư bằng cách phá hủy DNA của chúng. Xạ trị sẽ giúp thu nhỏ khối u, giảm bớt áp lực lên tuỷ sống và giảm tỉ lệ tổn thương thần kinh vĩnh viễn.
Do đó, khi người bệnh có bất kỳ dấu hiệu chèn ép tủy sống cần phải thông báo cho bác sĩ để được xạ trị. Bên cạnh đó, một số loại thuốc khác cũng giúp giảm áp lực chèn ép của khối u nhưng xạ trị là phương pháp điều trị nhanh nhất lúc này nếu như không có chống chỉ định.
Tùy thuộc vào loại ung thư mà bác sĩ sẽ lên phác đồ xạ trị cho mỗi đợt, thông thường từ 1 – 4 tuần. Xạ trị giúp giảm đau cho 7/10 bệnh nhân ung thư tủy di căn và có khoảng 1-5/ 10 bệnh nhân có khả năng đi lại sau xạ trị.
– Phương pháp hóa trị liệu: Các bác sĩ tiêm thuốc điều trị ung thư vào cơ thể người bệnh hoặc uống trực tiếp qua đường miệng. Thuốc sẽ đi khắp cơ thể và tiêu diệt tế bào ung thư.
- Liệu pháp miễn dịch: Phương pháp này giúp tăng cường hệ thống miễn dịch cho người bệnh bằng cách sử dụng các phiên bản nhân tạo của hệ miễn dịch để diệt tế bào ung thư hoặc làm chậm sự phát triển của chúng.
– Điều trị nhắm trúng đích: Phương pháp này được sử dụng khi những phương pháp khác không mang lại hiệu quả, giúp kéo dài thời gian sống cho bệnh nhân, nâng cao chất lượng cuộc sống cho họ và hạn chế được những tác dụng phụ do hóa chất.
– Ghép tế bào gốc: Trong quá trình điều trị hoá học liều cao, các tế bào gốc hình thành máu trong tủy xương sẽ bị phá hủy. Phương pháp ghép tế bào gốc sẽ tạo ra nhiều tế bào phát triển trong tủy của người bệnh. Thông thường, người bệnh sẽ được ghép tủy từ những người thân trong gia đình và việc hiến tủy không gây ra bất kì ảnh hưởng nào đối với sức khỏe của người hiến tủy. Sau ghép tủy, tuổi thọ của bệnh nhân có thể được kéo dài thêm vài năm tùy thuộc vào tình trạng sức khỏe của họ.