Ung thư vú là bệnh ung thư nguy hiểm nhất ảnh hưởng đến phụ nữ ở các nước phát triển và đang phát triển (chiếm 25% trong số các bệnh ung thư ở nữ) (Theo Tổ chức Y tế thế giới (WHO). Ngày này, do tuổi thọ tăng, đô thị hóa và áp dụng lối sống phương Tây càng mạnh mẽ nên tỷ lệ số người có nguy cơ mắc bệnh ung thư vú càng gia tăng.
Số liệu thống kê cho thấy cứ 8 phụ nữ thì có 1 người mắc bệnh ung thư vú. Tuy nhiên có đến 75% số trường hợp ung thư vú ở phụ nữ không biết các yếu tố nguy cơ mắc bệnh để đến khi phát hiện thì đã muộn.
Do đó, ngoài việc theo dõi các triệu chứng của bệnh ung thư vú, những người phụ nữ thuộc nhóm có nguy cơ mắc bệnh ung thư vú dưới đây cần đặc biệt lưu tâm để có biện pháp phòng tránh.
Các nhà khoa học đã xác định được một số gen có đột biến dẫn đến nguy cơ mắc bệnh ung thư vú, trong đó đứng đầu danh sách là gen BRCA1 và BRCA2. Bởi vì có đến 45-65% phụ nữ có đột biến di truyền 2 gen này mắc bệnh ung thư vú. Những đột biến này có xu hướng xảy ra ở những người trẻ và có nguy cơ tác động đến cả hai vú cao hơn so với những người mắc bệnh không phải do nguyên nhân đột biến gen.
Mặc dù các đột biến di truyền và tiền sử gia đình mắc ung thư vú chỉ chiếm 13% trong số các trường hợp được chẩn đoán bệnh, nhưng đây vẫn là một yếu tố nguy mắc bệnh ung thư vú cơ đáng kể cho những người phụ nữ có mẹ hoặc chị em ruột mắc bệnh này.
Những người thuộc nhóm đối tượng này có nguy cơ mắc bệnh cao gấp 4 lần so với những người khác.
Tất cả chị em phụ nữ đều có nguy cơ mắc bệnh ung thư vú. Theo một khảo sát ở Mỹ, có khoảng dưới 5% phụ nữ dưới 50 tuổi bị ảnh hưởng bởi căn bệnh ung thư vú nhưng nguy cơ mắc bệnh sẽ tăng lên đáng kể khi bạn bước sang tuổi 50 và cao nhất ở phụ nữ trên 70 tuổi.
Những phụ nữ không sinh con hoặc có con đầu lòng sau 30 tuổi thường có nguy cơ mắc bệnh ung thư vú cao hơn khoảng 40% so với phụ nữ sinh con ở độ tuổi 20-25. Điều này là do các đột biến gen trở nên phổ biến hơn khi bạn nhiều tuổi, chúng sẽ nhân lên và phát triển khi trong thời kỳ bạn mang thai.
Đây cũng là một trong những nguyên nhân mà hiện nay, các bác sĩ thường khuyến cáo phụ nữ nên sinh con trước 30 tuổi và hạn chế việc sinh đẻ khi đã bước qua tuổi 40, để hạn chế những ảnh hưởng xấu đến sức khỏe.
Phụ nữ có kinh nguyệt sớm (trước tuổi 12) và mãn kinh muộn (sau tuổi 55) có nguy cơ mắc bệnh ung thư vú cao. Nguyên nhân là càng chịu tác động lâu dài của nội tiết tố nữ estrogen và progesterone thì nguy cơ mắc bệnh càng cao.
Phụ nữ đã đến giai đoạn mãn kinh thường trải qua liệu pháp thay thế hormone để khôi phục lại mức nội tiết tố nữ trong cơ thể, do đó làm giảm các vấn đề căng thẳng đi cùng với thời kỳ mãn kinh.
Tuy nhiên, các nghiên cứu đã chỉ ra rằng những ai phải trải qua liệu pháp hormon phối hợp với estrogen và progestin sẽ có nguy cơ phát triển ung thư vú cao nếu họ liên tục điều trị trong hơn 5 năm.
Mặc dù thuốc ngừa thai có thể làm giảm nguy cơ ung thư buồng trứng và ung thư tử cung, nhưng chúng cũng có nhiều tác dụng phụ.
Một trong số đó chính là làm tăng nguy cơ mắc bệnh ung thư vú. Vì vậy nếu bạn đang thường xuyên dùng thuốc tránh thai thì bạn nên nói chuyện với bác sĩ để biết loại thuốc nào uống an toàn, loại thuốc nào làm tăng nguy cơ mắc bệnh.
Bộ ngực dày không phải chỉ kích thước hay độ chắc chắn của ngực, mà là chỉ mật độ của các tổ chức mô khi chụp X-quang tuyến vú (Mammography).
Cấu tạo chính của vú là các mô liên kết (mô dày), mô mỡ (mô không dày), tuyến sữa và dây chằng. Hiện nay mật độ mô dày được coi là chỉ số lớn nhất để xác định nguy cơ mắc bệnh ung thư vú, thậm chí còn cao hơn so với yếu tố di truyền.
Các nhà khoa học thuộc Đại học California, San Francisco, Mỹ, phát hiện ra những người có mô dày nhiều gấp hai lần bình thường sẽ dễ mắc ung thư vú.
Các chuyên gia cho biết mô dày sẽ khiến cho các khối u rất khó bị phát hiện khi chụp X-quang tuyến vú nhằm phát hiện sớm tình trạng bệnh. Trên film chụp X-quang, các mô dày sẽ có màu giống với khối u, khiến các bác sĩ khó phát hiện và đưa ra kết quả chính xác.
U vú lành tính có kích thước nhỏ, không gây đau đớn và ít ảnh hưởng đến sức khỏe nên rất nhiều người chủ quan với nó.
Tuy nhiên, ít ai biết rằng u vú lành tính có thể phát triển thành ung thư vú.
Do đó, nếu bạn được chẩn đoán có khối u vú lành tính thì hãy chắc chắn bạn sẽ kiểm tra vú định kỳ, ít nhất 6 tháng/một lần để phát hiện ung thư sớm.
Androgens giống như testosterone, được sản xuất ở cả nam giới và nữ giới để duy trì sức khỏe sinh sản và sức khỏe nói chung.
Mặc dù phụ nữ chỉ sản xuất một phần nhỏ hormone Androgens so với nam giới nhưng các nghiên cứu đã cho thấy phụ nữ sau mãn kinh có lượng androgen lớn trong cơ thể, có nguy cơ mắc bệnh ung thư vú cao .
Chất béo trong cơ thể chúng ta có khả năng tạo ra một loại enzyme được gọi là aromatase giúp chuyển hóa androgens thành estrogen.
Đó là lý do tại sao phụ nữ sau mãn kinh có lượng dự trữ chất béo lớn trong cơ thể của họ (phụ nữ béo phì). Những người này có nguy cơ mắc bệnh ung thư vú khi cơ thể họ sản sinh ra nhiều estrogen hơn với những phụ nữ không bị béo phì.
Trong một nghiên cứu được công bố trên tờ Y học môi trường và nghề nghiệp, các nhà nghiên cứu Đan Mạch cho rằng, phụ nữ làm việc ca đêm có khả năng phát triển ung thư vú gấp 4 lần so với những phụ nữ không làm việc đêm.
Thông thường, melatonin tăng lên vào ban đêm, trong bóng tối, nhưng ánh sáng nhân tạo vào ban đêm có thể ngăn chặn mức độ melatonin, từ đó có thể kích thích đến các hormon khác ảnh hưởng đến sự phát triển của tế bào vú. Bệnh nhân ung thư vú có xu hướng có hàm lượng melatonin thấp hơn so với phụ nữ không có bệnh.
Nếu bạn thuộc bất kỳ nhóm có nguy cơ mắc bệnh ung thư vú nào ở trên, chúng tôi khuyên bạn nên làm những điều sau đây để phát hiện kịp thời ra bệnh:
- Khám sức khỏe vú 6 - 12 tháng một lần.
- Thực hiện chụp X-quang vú mỗi năm/ lần sau khi bước sang tuổi 30.
- Tiến hành khám sàng lọc ung thư vú nếu bạn có tiền sử gia đình bị ung thư vú.