Bệnh trĩ còn được gọi theo cách dân dã là bệnh lòi dom, là bệnh thuộc vùng hậu môn trực tràng. Các tĩnh mạch bị giãn quá mức ở hậu môn trực tràng sẽ tạo thành búi trĩ và gây nên bệnh trĩ.
Những tĩnh mạch này bị giãn do chịu chèn ép từ bên trong, có khả năng xung huyết, chảy máu và có khi bị sa ra ngoài.
Bệnh trĩ nếu không được phát hiện và điều trị kịp thời có thể dẫn đến nhiều biến chứng nguy hiểm, làm giảm chất lượng cuộc sống và cả hạnh phúc gia đình. Do vậy, nếu bạn phát hiện ra bất cứ dấu hiệu nào của bệnh trĩ, bạn cần phải đến các cơ sở y tế để thăm khám ngay.
Bệnh trĩ được chia thành nhiều loại khác nhau. Nhưng nhìn chung, trĩ được chia thành 2 dạng phổ biến nhất là trĩ nội và trĩ ngoại.
Trĩ nội có búi trĩ hình thành trong ống hậu môn, trên bề mặt lớp niêm mạc. Trĩ nội không có dây thần kinh nên ở giai đoạn đầu, người bệnh sẽ không có cảm giác đau đớn. Trĩ nội cũng không thể phát hiện được bằng mắt thường ở giai đoạn đầu mà chỉ khi bệnh đã chuyển sang giai đoạn nặng, người bệnh đi khám mới phát hiện ra bệnh.
Các cấp độ của trĩ nội:
- Cấp độ 1: Búi trĩ mới bắt đầu hình thành bên trong ống hậu môn
- Cấp độ 2: Búi trĩ sa ra ngoài khi người bệnh đi đại tiện và tự co lên lại
- Cấp độ 3: Búi trĩ sa ra ngoài và phải dùng tay mới nhét được búi trĩ vào hậu môn
- Cấp độ 4: Bũi trí sa hẳn ra ngoài và không thể co vào trong dù có tác động lực từ bên ngoài
Trĩ ngoài là tình trạng búi trĩ hình thành bên ngoài ống hậu môn, bên dưới đường lược. Búi trĩ ngoại có dây thần kinh cảm giác nên người bệnh sẽ cảm thấy đau đớn. Trĩ ngoại có thể quan sát được bằng mắt thường với dấu hiệu bề mặt búi trĩ là các nếp gấp xung quanh hậu môn.
Dựa vào kết quả thăm khám và kích thước của búi trĩ mà bác sĩ sẽ kết luận tình trạng bệnh. Nhìn chung, trĩ ngoại rất dễ phát hiện nhưng do tâm lý e ngại mà nhiều người đến khám khi bệnh đã tiến triển nặng.
Bên cạnh trĩ nội và trĩ ngoại, còn có một dạng trĩ hỗn hợp là dạng kết hợp của trĩ nội và trĩ ngoại. Các búi trĩ phát triển cả trong ống hậu môn lẫn ở bên ngoài tạo thành một búi trĩ hỗn hợp. Do đó, quá trình điều trị sẽ kéo dài và đòi hỏi sự kiên nhẫn của người bệnh.
Nguyên nhân bệnh trĩ rất đa dạng:
- Táo bón hoặc tiêu chảy thường xuyên
- Căng thẳng stress
- Thói quen ăn uống: ăn ít, ăn ít rau củ quả, uống ít nước.
- Thói quen đi đại tiện: đi đại tiện quá lâu, rặn nhiều...
- Béo phì, thừa cân, vận động khó khăn
Do hoạt động thể lực suy giảm sẽ ảnh hưởng đến lưu thông của hệ tuần hoàn gây nên tụ máu cục bộ hoặc mao mạch ở những vị trí thường xuyên bị tác động như: mao mạch vùng hậu môn sẽ phồng to rất dễ trở thành trĩ ngoại.
- Những người vì nghề nghiệp hay do thói quen ngồi lâu, ít vận động rất sẽ dẫn đến mắc bệnh trĩ.
- Một số người do thói quen ăn cay, uống nhiều rượu, bia, dùng nhiều chất kích thích sẽ tạo điều kiện cho bệnh trĩ phát triển.
Trĩ có rất nhiều những triệu chứng khác nhau như đi ngoài ra máu, búi trĩ sa ra ngoài, ngứa rát khó chịu, đau rát hậu môn, chất dịch ra nhiều...
Đây là triệu chứng thường gặp và phổ biến ở hầu hết người bệnh. Dù trĩ nội hay trĩ ngoại, trĩ nặng hay nhẹ đều có tình trạng đi ngoài ra máu.
Nguyên nhân là do: các tĩnh mạch bị giãn quá mức làm búi trĩ xuất hiện, sưng và xung huyết. Khi bị phân búi trĩ sẽ bị chảy máu. Đôi khi máu từ búi trĩ chảy ra đông lại trong lòng trực tràng gây đi cầu ra máu cục.
Ở giai đoạn đầu, chỉ thấy máu dính trên phân hoặc trên giấy vệ sinh. Khi bệnh phát triển nặng hơn, máu chảy nhỏ giọt hoặc bắn thành tia.
Nghiêm trọng hơn, kể cả khi người bệnh đi lại, ngồi xổm, vận động mạnh cũng khiến máu chảy ra. Tình trạng này kéo dài khiến người bệnh mệt mỏi, kéo theo nhiều hệ lụy khác.
Đây là biểu hiện điển hình của bệnh trĩ. Trước khi bị sa búi trĩ, hầu hết bệnh nhân đều có triệu chứng đi ngoài ra máu. Giai đoạn đầu búi trĩ sau khi sa ra ngoài có thể tự co lên. Lúc này, sa búi trĩ không gây đau đớn, khó chịu cho người bệnh.
Giai đoạn sau, búi trĩ sa ra ngoài và không thể tự co lên, phải dùng tay đẩy lên khiến người bệnh thấy đau rát, phiền hà vì búi trĩ không thể tự co lên được, đặc biệt là với những bệnh nhân phải đi lại nhiều hoặc vận động mạnh.
Nghiêm trọng hơn khi búi trĩ bị sa ra ngoài và dùng tay đẩy cũng không lên. Để lâu dẫn đến sa nghẹt trĩ, không vệ sinh sạch sẽ vùng hậu môn sẽ dẫn đến nhiễm trùng và hoại tử búi trĩ khiến bệnh nhân đau đớn.
Nguyên nhân hậu môn ngứa ngáy, khó chịu chủ yếu là do hiện tượng chảy dịch. Do các búi trĩ ngoại hình thành ở bên ngoài hậu môn khiến người bệnh thấy cộm và ngứa ngáy.
Cơn đau có thể kéo dài vài giờ với các trường hợp bệnh nặng thường bị đau trong thời gian dài. Bệnh nhân bị trĩ ngoại thường đau hơn trĩ nội. Vì búi trĩ nội xuất hiện không có dây thần kinh cảm giác nên thường ít gây đau.
Để cơ thể có thể đại tiện dễ dàng hơn, hậu môn sẽ tiết ra chất dịch. Khi bị sa búi trĩ, cơ vòng hậu môn bị hở là cho chất dịch chảy từ trong hậu môn ra kèm theo phân, khiến khu vực hậu môn lúc nào cũng ẩm ướt khó chịu.
Phương pháp điều trị bệnh trĩ tùy thuộc vào mức độ nặng nhẹ của bệnh và nó là loại bệnh trĩ nội hay trĩ ngoại.
Hiện nay, có một số cách điều trị bệnh trĩ: điều trị nội khoa + chế độ vệ sinh ăn uống, điều trị bằng thủ thuật và phương pháp điều trị bằng phẫu thuật.
Trong phương pháp nội khoa gồm có phương pháp ngăn chặn các yếu tố thuận lợi phát sinh bệnh trĩ, phương pháp sử dụng thuốc (thuốc đặt, thuốc bôi , thuốc uống).
- Phương pháp ngăn chặn các yếu tố thuận lợi phát sinh bệnh trĩ
Tập thói quen đi cầu đều đặn hàng ngày, điều chỉnh thói quen ăn uống: tránh các chất kích thích như cà phê, rượu, trà, tránh các thức ăn nhiều gia vị như ớt, tiêu, uống nhiều nước, ăn nhiều chất xơ.
Vận động thể lực sẽ giúp các nhu động ruột hoạt động tốt, tiêu hóa tốt và tuần hoàn máu vùng hậu môn tốt, không gây ứ trệ máu làm giảm nguy cơ căng phồng tĩnh mạch hậu môn và phòng ngừa bệnh trĩ.
- Sử dụng thuốc
+ Thuốc uống
Người bệnh cần sử dụng thuốc theo chỉ định của bác sĩ, đặc biệt phải kiên trì dùng thuốc đủ thời gian. Đó là các loại thuốc có tác dụng điều hòa tính thẩm thấu và giúp tăng sự bền chắc của thành các tĩnh mạch, do đó làm giảm phù nề, giảm sung huyết các tĩnh mạch ở vùng trĩ, cầm máu đối với trĩ chảy máu, co búi trĩ.
Ngoài thuốc tác động chính trên tĩnh mạch trĩ, có thể dùng thêm các loại thuốc khác như: kháng sinh, thuốc chống viêm, giảm đau, thuốc nhuận tràng…
+ Thuốc đặt hoặc thuốc bôi
Các loại thuốc đặt vào trong vùng hậu môn thường là để điều trị trĩ nội hơn là trĩ ngoại. Người ta thường dùng thuốc mỡ bôi lên vùng bị tổn thương có tác dụng tại chỗ.
Các loại thuốc này có tác dụng giảm đau, giảm ngứa, sát trùng, chống viêm nhiễm nhưng chỉ có tác dụng giảm đau tức thời chứ không thể làm búi trĩ co lên được, cũng không điều trị triệt để.
Đây là các thủ thuật đơn giản nhằm làm giảm lưu thông máu tới vùng trĩ. Những thủ thuật này thường được làm trong ngày và sau khoảng 1-2 tiếng được ra viện ngay gồm: chích xơ, thắt trĩ bằng vòng cao su, quang đông hồng ngoại..
Được thực hiện bằng cách tiêm thuốc làm xơ hóa vùng dưới niêm mạc để giảm lưu lượng máu đến búi trĩ. Thuốc này sẽ làm xơ hoá, ép chặt các nhánh mạch máu, dính chắc niêm mạc và hạ niêm mạc với nhau.
Tuy nhiên, thủ thuật này cần được thực hiện bởi các bác sĩ có tay nghề để đảm bảo tránh được các biến chứng như xuất huyết hoặc tiêm quá sâu vào tuyến tiền liệt, trực tràng.
- Thắt trĩ bằng vòng cao su
Búi trĩ được thắt lại bằng một vòng cao su nhỏ, gây nghẹt và thiếu máu đến búi trĩ đó. Sau khoảng 5 – 7 ngày búi trĩ sẽ bị hoại tử và rụng.
Một số ít trường hợp vị trí thắt vẫn có nguy cơ bị xuất huyết, nhiễm trùng huyết, loét nếu dụng cụ không được đảm bảo tiệt trùng. Do đó mà người bệnh nên thực hiện thủ thuật này tại các cơ sở y tế uy tín,
Là phương pháp điều trị trĩ bằng cách dùng sức nóng tia hồng ngoại để làm cho mô bị đông lại và tạo sẹo xơ, giảm lưu lượng máu đến búi trĩ, đồng thời cố định trĩ vào ống hậu môn.
Đây là phương pháp dùng với trĩ nội độ 1 và độ 2. Ưu điểm là không đau, an toàn, cầm máu rất hiệu quả, máy quang đông hồng ngoại có lợi là không gây nhiễu các dụng cụ điện tử gắn trên người bệnh như máy điều hòa nhịp tim, tim nhân tạo,... Nhược điểm là thường phải làm thủ thuật nhiều lần.
Sau khi phẫu thuật cắt trĩ, bệnh nhân không cần phải lưu viện qua đêm. Người bệnh được gây mê trong quá trình phẫu thuật, và sử dụng thuốc giảm đau.
Thông thường thì sau từ khoảng 7 đến 10 ngày thì người bệnh sẽ hồi phục, có thể sinh hoạt và làm việc bình thường. Các phương pháp phẫu thuật cắt trĩ bao gồm:
Đây là phẫu thuật ít gây chảy máu trong mổ, thời gian mổ ngắn, không gây tổn thương cơ thắt. Là phương pháp mổ an toàn, đơn giản, kết quả điều trị tốt.
Cắt khoanh niêm mạc và lớp dưới niêm mạc có các búi tĩnh mạch trĩ, sau đó kéo niêm mạc từ trên xuống khâu với da ở hậu môn. Phẫu thuật này có thể xử lý triệt để búi trĩ tuy nhiên dễ gây ra hẹp hậu môn và có thể làm rỉ dịch ở hậu môn.
Phương pháp điều trị trĩ dạng khâu treo búi trĩ bằng tay (Ảnh: internet)
Mục đích là làm giảm lưu lượng máu đến búi trĩ là để thu nhỏ thể tích khối trĩ và treo búi trĩ lên ống hậu môn bằng các mũi khâu tay khâu xếp nếp niêm mạc trên đường lược 2-3 cm.
- Phẫu thuật cắt đơn lẻ từng búi trĩ
Ưu điểm của phương pháp điều trị trĩ này là: tránh được các biến chứng của phẫu thuật cắt trĩ khoanh niêm mạc da.
Nhược điểm là: đau sau mổ, thời gian nằm viện dài, thời gian trở lại lao động muộn và không hiệu quả trong các trường hợp trĩ vòng.
- Khâu cột động mạch trĩ dưới hướng dẫn của siêu âm Doppler
Đầu dò siêu âm Doppler gắn liền trong một ống soi hậu môn, qua dụng cụ này bác sĩ dò tìm 6 động mạch và khâu cột ở vị trí trên đường lược 2cm. Ưu điểm của phương pháp này là không đau và có thể bảo tồn được đệm hậu môn.
- Phẫu thuật longo
Là phương pháp điều trị trĩ nhằm giảm lưu lượng máu đến đám rối tĩnh mạch trĩ, thu nhỏ thể tích trĩ và treo được đệm hậu môn vào ống hậu môn. Sử dụng máy khâu vòng để cắt một khoanh niêm mạc trên đường lược khoảng 2-3 cm và khâu vòng bằng máy bấm.
Ưu điểm: không đau, thời gian nằm viện ngắn, nhanh phục hồi, nhưng chi phí cao hơn so với các loại phẫu thuật khác.
Nước sẽ giúp cho phân mềm để khi đi vệ sinh phân dễ dàng đi qua hậu môn hơn. Nước bổ sung bao gồm cả nước canh, nước hoa quả, cần đảm bảo lượng nước bổ sung cho cơ thể, mỗi ngày từ 1,5 – 2 lít nước .
Nhưng khi uống nước cũng cần đúng cách, cần uống dải đều trong ngày, không nên để cơ thể mất nước quá lâu. Sau một đêm dài lúc ngủ dậy nên uống ngay một cốc nước.
Để không bị táo bón, chế độ ăn của bạn phải đủ lượng chất xơ, nước. Nên bổ sung chất xơ hợp lý để cơ thể thích nghi dần, nếu đột ngột nạp lượng lớn chất xơ có thể dẫn tới đầy hơi.
Một số loại rau quả đậu bắp, mướp hương, bí đỏ, cà chua, cà tím, súp lơ xanh, củ sen, bắp, bơ, thanh long, bưởi, táo tây, dâu tây, kiwi, hồng, hải sâm, sung, rau mùi, rau má... tốt cho người bị bệnh trĩ.
Rau lang, rau mồng tơi, rau đay, rau diếp cá, rau dền. Chuối và khoai lang, dưa hấu cũng là loại rau củ quả có giá trị nhuận tràng tốt, sau mỗi bữa ăn nên dùng một quả chuối, hoặc ăn ít dưa hấu.
Magie là một chất có tác dụng nhuận tràng, hạn chế chứng táo bón. Một số thức ăn giàu magie: cá bơn, quả hạnh sấy khô, hạt điều sấy khô, đậu nành, rau chân vịt, bột yến mạch, bơ lạc, quả bơ, nho khô không hạt...
Một số thực phẩm giàu sắt: gan gà, cua hấp, cá ngừ, mận, mơ khô, nho khô, hạt hướng dương, hạt điều, hạnh nhân, mè, khoai tây luộc, rau bó xôi, bông cải xanh nấu chín, dưa đỏ, rau cần, mộc nhĩ đen, vừng (mè đen), quả óc chó...
- Kiêng các chất gia vị cay, nóng, cà phê, rượu, những thực phẩm chứa chất cafein. Bởi chúng gây kích ứng niêm mạc dạ dày, ruột và thường tạo ra cảm giác khó chịu khi phân đi qua hậu môn.
- Không nên ăn mặn vì muối có xu hướng giữ một lượng nước lại trong cơ thể và làm cho các tế bào và mạch máu căng ra, làm bệnh nặng hơn.
- Nước ngọt có ga, bánh ngọt cũng nên hạn chế vì nó làm gia tăng áp lực trong khung ruột đồng thời còn làm tăng phản ứng ngứa hậu môn.
- Không nên ăn đồ ăn quá nhiều chất mỡ hoặc đồ rán… Bởi đồ ăn chứa nhiều chất béo thường gây khó tiêu và làm cơ thể dễ bị nóng trong.