Thạc sĩ, bác sĩ Lê Thị Kiều Dung, Trưởng khoa Phụ Sản, Bệnh viện Đại học Y Dược TP HCM, cho biết tỷ lệ bà bầu mắc các bệnh lý nội và ngoại khoa kết hợp ngày càng gia tăng gây nhiều biến chứng sản khoa nguy hiểm. Đái tháo đường thai kỳ xảy ra ở khoảng 16% số thai phụ. Bệnh có thể gây nguy hiểm cho cả mẹ và con nếu không được phát hiện điều trị sớm.
Đái tháo đường thai kỳ có thể khiến bà bầu tăng cân quá mức (trên 2 kg mỗi tháng), dễ gây béo phì nên rất khó lấy lại vóc dáng thon gọn sau sinh. Bệnh cũng gây đa ối, tỷ lệ khá cao (từ 27 đến 30% trường hợp), lượng ối quá nhiều làm tử cung to nhanh dễ làm rối loạn tuần hoàn và hô hấp.
Ngoài ra còn tăng nguy cơ sảy thai, sinh non, cao huyết áp, tiền sản giật và sản giật gấp 4 lần, nhiễm trùng thường nặng nề hơn, nhất là viêm thận, bể thận. Thai phụ thường chuyển dạ kéo dài, sinh khó, tăng nguy cơ sang chấn và băng huyết sau sinh, tỷ lệ mổ lấy thai cao hơn và những nguy cơ do phẫu thuật cũng tăng, rối loạn lượng đường trong máu nặng có thể dẫn đến hôn mê.
Người mẹ bị đái tháo đường thai kỳ cũng gây nguy hiểm cho thai nhi. Thống kê ghi nhận tỷ lệ dị tật thai gia tăng nếu người mẹ bị đái tháo đường từ trước khi có thai mà không được điều trị đúng cách. Đứa trẻ sinh ra dễ bị rối loạn tăng trưởng (quá to, hoặc quá nhỏ).
Thai to gây sinh khó, dễ bị sang chấn lúc sinh như trật khớp vai, gãy xương đòn, liệt đám rối thần kinh cánh tay. Thai có thể bị chết lưu đột ngột do đường huyết tăng quá cao, tỷ lệ tử vong chu sinh tăng gấp 2 đến 5 lần.
Bé sơ sinh dễ suy hô hấp do phổi chậm trưởng thành khi có tình trạng tăng đề kháng với insulin; hạ đường huyết, hạ canxi, vàng da nặng và hôn mê, lớn lên dễ béo phì, tiểu đường, cao huyết áp.
Bác sĩ Dung cảnh báo khoảng 20% phụ nữ bị đái tháo đường thai kỳ có thể mắc bệnh tiểu đường thực sự sau sinh. Bệnh diễn tiến mạn tính suốt phần đời còn lại.
Đây là một trong những nguyên nhân tử vong do đường huyết cao gây tổn thương tế bào mạch máu dẫn đến xơ vữa động mạch, cao huyết áp, suy tim và bệnh mạch vành như đau thắt ngực, nhồi máu cơ tim, đột tử. Nhóm phụ nữ này cũng dễ bị bệnh mạch máu não như sa sút trí tuệ, tai biến mạch máu não, tổn thương các mao mạch ở võng mạc gây mù mắt, ổn thương vi thể ở cầu thận gây xơ cứng cầu thận và suy thận.
Ngoài ra còn tiềm ẩn các biến chứng cấp tính như hôn mê, nhiễm trùng nặng…
Những yếu tố nguy cơ gây bệnh đái tháo đường thai kỳ bao gồm tiền căn gia đình có người bị đái tháo đường, bà bầu trên 40 tuổi, béo phì (BMI trên 25), tiền căn thai kỳ trước, từng sinh con to 4 kg trở lên.
Lưu ý tầm soát đường huyết ở nhóm bà bầu có tiền sử thai lưu 3 tháng cuối không rõ lý do, sinh con có dị tật bẩm sinh không tìm được nguyên nhân, rối loạn phóng noãn kiểu buồng trứng đa nang, sử dụng thuốc có corticosteroid, thuốc kháng virus hoặc nhiễm HIV.
Tóm lại, đái tháo đường thai kỳ tiềm ẩn rất nhiều nguy cơ ảnh hưởng đến sức khỏe bà mẹ và thai nhi, do vậy việc tầm soát đái tháo đường trong thai kỳ rất cần thiết. Bác sĩ Dung khuyên tất cả bà bầu nên thực hiện nghiệm pháp dung nạp đường huyết (OGTT) uống 75 g glucose để tầm soát đái tháo đường.
Chị em không có yếu tố nguy cơ nên thực hiện OGTT từ tuần thứ 24 đến 28 của thai kỳ, không nên thực hiện muộn hơn tuần thứ 28. Trường hợp có yếu tố nguy cơ nên tầm soát ở lần khám thai đầu tiên. Nếu kết quả bình thường vẫn phải làm OGTT lại vào tuần thứ 24 đến 28.
Về chế độ dinh dưỡng, phụ nữ có thai nên ăn đủ chất nhưng không ăn nhiều để phòng tránh tiểu đường. Các loại thực phẩm phổ biến như thịt, cá, trứng, sữa, rau quả tươi… cung cấp đủ chất dinh dưỡng. Cần hạn chế ăn đường, tinh bột, chất béo. Đặc biệt không nên uống nhiều nước mía vì có nguy cơ làm tăng chỉ số đường huyết trong thai kỳ.