Thể viêm gan B virus cấp tính là một nguyên nhân phổ biến nhất khiến bà bầu vàng da trong thai kỳ. Ngoài ra thì chứng vàng da còn có thể do bà bầu bị gan nhiễm mỡ cấp tính thai kỳ, chứng HELLP và ứ mật trong gan.
Đa số bà bầu bị thể viêm gan B cấp tính thường không gặp phải biểu hiện nào cụ thể khi ở trong giai đoạn nhiễm trùng cấp tính. Tuy vậy thì vẫn có những dấu hiệu kéo dài vài tuần như vàng da, vàng mắt hay nước tiểu sẫm màu, ngoài ra còn có đau bụng, buồn nôn.
Bên cạnh đó thì cũng có một số ca bà bầu ở thể viêm gan B cấp tính có thể diễn biến sang suy gan cấp tính và có nguy cơ tử vong cao.
Thể viêm gan B cấp tính trong thai kỳ thường không ở mức nghiêm trọng và không liên quan tới việc tăng tỷ lệ tử vong hay dị tật thai kỳ. Do vậy mà việc nhiễm virus thể viêm gan B cấp tính trong thai kỳ không cần phải lựa chọn việc đình chỉ thai nghén hay không.
Tuy vậy thì hiện nay đã có những trường hợp xảy ra sinh non hay nhẹ cân liên quan tới thể viêm gan B cấp tính; đồng thời còn có thể liễn quan tới tỷ lệ lây truyền chu sinh 10% - tỷ lệ này sẽ tăng đáng kể hơn nữa nếu như nhiễm trùng cấp tính xảy ra gần tới lúc sinh hoặc lúc sinh nở - báo cáo tăng 60% là có thể.
Với thể viêm gan B cấp tính ở phụ nữ mang thai, điều trị chỉ chú trong việc hỗ trợ chứ không có điều trị đặc hiệu chỉ định nào. Mục đích của việc hỗ trợ là làm cho thai phụ cảm thấy thoải mái hơn và cân bằng thang dinh dưỡng bù lại dịch do nôn và tiêu chảy gây ra.
Trong việc theo dõi thể viêm gan B cấp tính ở bà bầu, cần phải làm xét nghiệm sinh hoá gan và thời gian prothombin. Việc điều trị kháng virus viêm gan B chỉ nên áp dụng ở những thai phụ tiến triển thể viêm gan B suy cấp tính hay viêm gan nặng và dai dẳng. Thuốc phổ biến dùng cho thể viêm gan B cấp tính dạng này là lamuvudine, telbivudine hoặc tenofovir.
Phụ nữ mang thai mắc thể viêm gan B mãn tính thường hấp thụ tốt trong quá trình mang thai nếu như không kèm theo bệnh lý về gan tiến triển. Tuy vậy thì vẫn có thể xuất hiện những ảnh hưởng nếu những đợt bùng phát viêm gan xảy ra. Vì thế khi được chẩn đoán mắc thể viêm gan B mãn tính cần làm xét nghiệm sinh hoá gan với tần suất 3 tháng/lần lúc mang thai và 6 tháng/lần sau khi sinh.
Ngoài ra thì có thể làm xét nghiệm HBV DNA đồng thời hay khi có ALT tăng. Ảnh hưởng của virus thể viêm gan B mãn tính đến kết cục thai kỳ vẫn chưa được làm rõ.
Một nghiên cứu lớn so sánh 824 phụ nữ HBsAg dương tính với 6.281 người chứng HBsAg âm tính: không thấy khác biệt về tuổi thai lúc sinh, trong trọng lượng lúc sinh, tỉ lệ sinh non, vàng da sơ sinh, dị tật bẩm sinh và tỉ lệ tử vong chu sinh.
Trái lại, đã có mô tả những mối liên quan có thể có giữa thể viêm gan B mãn tính và đái tháo đường thai kỳ, làm tăng nguy cơ sinh non, khiến trọng lượng trẻ lúc sinh thấp hơn và có thể làm thai phụ xuất huyết trước sinh. Tuy vậy, dữ liệu bị trộn lẫn và mâu thuẫn và cường độ của mối liên quan này là không rõ ràng.
Bác sĩ Phan Diễm Đoan Ngọc (Bệnh viện Từ Dũ)