Nhiệt miệng tuy không phải bệnh nguy hiểm nhưng nó lại khiến bệnh nhân đau đớn, ảnh hưởng đến sinh hoạt và cuộc sống. Dù không thể chữa khỏi hẳn nhưng việc điều trị vẫn có thể giúp giảm bớt triệu chứng, giảm khả năng tái phát và kéo dài thời gian không bị bệnh. Có thể sử dụng một số thuốc sau đây:
Bôi trực tiếp lên tổn thương. Đã có những nghiên cứu ngẫu nhiên về hiệu quả của thuốc. Thuốc làm bớt đau ngay sau khi bôi và lành thương tổn trong vòng 3 - 5 ngày. Nhiều bệnh nhân không thích cảm giác nóng miệng sau khi bôi thuốc nhưng rất hài lòng khi hết đau hoàn toàn sau vài giờ.
Nhiệt miệng khiến người khác cảm thấy đau đớn
Debacterol là phức hợp phenol sulfonate với sulfuric acid có tác dụng tương tự nitrate bạc. Đây là một hình thức đốt tiêu hủy vết loét bằng hóa chất. Cảm giác đau hầu như giảm ngay và vết thương sẽ lành sau 3 - 5 ngày. Thuốc bán theo toa và chỉ được dùng bởi nha sĩ hoặc bác sĩ. Thuốc chỉ được bôi 1 lần mỗi ngày.
Thuốc chỉ cung cấp theo toa bác sĩ nếu bệnh nhân chưa bớt sau khi sử dụng các thuốc thông thường
Thuốc được bôi ngày 3 lần, tốt nhất là sau bữa ăn chính và trước khi đi ngủ.
Gel 2% lidocaine bôi chỗ loét ngày 4 lần. Tránh nuốt thuốc sau khi bôi và không nên dùng quá 4 lần mỗi ngày để tránh độc tính.
Dung dịch tetracycline (achromycin, nor-tet, panmycin, sumycin, tetracap) dùng súc miệng có thể giúp giảm đau và lành loét nhanh chóng. Tuy nhiên, thuốc không giúp ngăn ngừa tái phát. Khi dùng quá 5 ngày, thuốc có thể gây kích ứng và tạo điều kiện cho nấm phát triển.
Dung dịch sucralfate (thường được dùng trong loét tiêu hóa): Còn ít nghiên cứu liên quan đến việc sử dụng sucralfate cho loét aphthe. Thường dùng bằng cách ngâm 1 viên thuốc vào 5-10ml (1-2 muỗng cà phê) nước. Bôi đều dung dịch lên niêm mạc miệng, để thuốc thấm vài phút rồi nhổ ra. Thực hiện 4 lần trong ngày.
Không nên dùng quá 4 lần mỗi ngày để tránh độc tính
Có thể dùng bổ sung nếu cơ thể người bệnh thiếu hụt folic acid, sắt hoặc vitamin B12. Cần uống nhiều tháng để tình trạng cải thiện.
Chlorhexidine (cyteal, eludril): Dung dịch súc miệng sát khuẩn giúp mau lành loét.
Đối với trường hợp thật nặng, bác sĩ có thể xem xét cho dùng corticosteroid đường uống sau khi cân nhắc giữa lợi ích và tác hại. Tác dụng phụ của thuốc bao gồm tăng cân, suy giảm miễn dịch, xương giòn dễ gãy, tăng tiết acid dẫn đến loét dạ dày…
Thalidomide (thalomid): Trường hợp bị bệnh rất nặng, bác sĩ có thể xem xét dùng thalidomide. Tuy nhiên do gây ra nhiều tác dụng phụ, thuốc chỉ được FDA chấp thuận sử dụng cho loét aphthe nặng ở bệnh nhân HIV dương tính.
Amlexanox (aphthasol): Bôi ngày 4 lần, sau khi ăn và trước lúc ngủ. Chưa có nhiều bằng chứng về khả năng nhanh chóng làm giảm đau và lành loét của thuốc.
Bôi ngày 4 lần, sau khi ăn và trước lúc ngủ
Gồm các thuốc đã được dùng trong nhiều thử nghiệm như colchicine, pentoxifylline (trental), interferon, cimetidine (tagamet), clofazimine (lamprene), các tác nhân đối kháng TNF-a, infliximab (remicade), etanercept (enbrel), levamisole (ergamisol) và dapsone. Một số thuốc trong danh sách dài trên đây khá đắt tiền, gây nhiều phản ứng phụ nhưng lại chưa cho thấy hiệu quả rõ rệt.
Lưu ý: Để loại trừ các bệnh khác có triệu chứng giống loét aphthe, bệnh nhân cần đi khám bệnh ngay nếu: đó là đợt phát bệnh đầu tiên và chưa chắc chắn về mặt chẩn đoán; đau ngày càng nhiều và không kiểm soát được; bệnh nhân có tiêu chảy (có thể người bệnh đã mắc một bệnh hệ thống như bệnh Crohn hoặc bệnh viêm loét đại tràng); có những ổ loét ở vị trí khác ngoài miệng (có thể bệnh nhân đã mắc một bệnh hệ thống như hội chứng Behcet hoặc một bệnh lây truyền qua đường tình dục); đối với các vết loét kéo dài trên 3 tuần.