Các phương pháp chẩn đoán và điều trị ung thư não

Các phương pháp chẩn đoán và điều trị ung thư não
Ung thư não là một trong những thể ung thư nghiêm trọng nhất, ảnh hưởng đến chức năng sống và gây nguy hiểm cho tính mạng. Chính vì vậy, ung thư phải được phát hiện và chẩn đoán sớm để không bỏ qua “giai đoạn vàng” của việc điều trị.

Ung thư não là một trong những thể ung thư nghiêm trọng nhất vì nó liên quan đến bộ phận giữ vai trò kiểm soát và điều khiển mọi chức năng sống của cơ thể. Các tế bào ung thư phát triển và tiêu diệt các tế bào lành tính khác, nghiêm trọng hơn là di căn đi xa, điều này ảnh hưởng đến chức năng sống của cơ thể và gây nguy hiểm cho tính mạng.

Ảnh 1.

1. Yếu tố nguy cơ dẫn đến ung thư não

Yếu tố nguy cơ của ung thư não bao gồm làm việc trong môi trường độc hại như nhà máy lọc dầu, xử lý nhiên liệu máy bay, nhà máy cao su hoặc tiếp xúc với các hóa chất như benzene. Một số yếu tố khác như tiền sử gia đình, hút thuốc lá, nhiễm HIV có được nhắc đến nhưng chưa thể chứng minh rõ ràng là tác nhân gây nên bệnh ung thư não.

2. Triệu chứng ung thư não bạn nên biết

- Đau đầu, đặc biệt vào buổi sáng và giảm dần trong ngày.

- Co giật.

- Buồn nôn hoặc nôn. 

- Yếu hoặc mất cảm giác ở tay hoặc chân. 

- Mất thăng bằng khi đi lại.

- Cử động nhãn cầu bất thường hoặc thay đổi thị giác. 

- Các cơn buồn ngủ đến thường xuyên. 

- Thay đổi tính cách hoặc giảm trí nhớ.

- Thay đổi ngôn ngữ.

Khi bạn phát hiện mình có các triệu chứng như trên thì bạn hãy đến các cơ sở y tế để kiểm tra tình trạng sức khỏe.

Đọc thêm: 

Bệnh nhân ung thư não nên ăn gì?

Chăm sóc bệnh nhân ung thư não như thế nào?

3. Chẩn đoán ung thư não 

- Chụp cắt lớp vi tính: Nhằm phát hiện những bất thường ở các mô trong não.

- Chụp cộng hưởng từ hạt nhân: Kỹ thuật này đặc biệt hữu ích trong chẩn đoán u não do có thể nhìn xuyên qua xương sọ để quan sát các mô bên dưới.

Ảnh 2.

- Chụp X – quang hộp sọ có thể cho thấy những thay đổi trong xương sọ do khối u gây ra. Nó cho thấy các lắng đọng canxi có mặt trong một số loại u não.

- Chụp xạ hình não hiển thị hình ảnh những khu vực phát triển không bình thường ở não và ghi lại trên một loại phim đặc biệt. Một lượng nhỏ chất phóng xạ được tiêm vào tĩnh mạch. Chất này được khối u hấp thụ và mức độ hấp thụ được hiển thị trên phim. Chất phóng xạ đi ra khỏi cơ thể trong vòng sáu giờ và không nguy hiểm.

- Chụp mạch hoặc chụp độnq mạch, là chụp bằng tia X sau khi tiêm vào động mạch (thường là động mạch đùi) một loại thuốc đặc biệt. Thuốc đi đến mạch máu nào và có thể quan sát trên phim X quang. Có thể thấy được hình ảnh khối u và các mạch máu đi đến khối u.

- Chụp X – quang tủy sống: Một loại thuốc đặc biệt được tiêm vào dịch não tuỷ và bệnh nhân được đặt nghiêng để thuốc hòa vào dịch não tuỷ. Có thể thực hiện thăm dò này khi bác sĩ nghi ngờ có khối u ở tuỷ sống.

4. Phương pháp điều trị ung thư não

- Phẫu thuật

Đây là phương pháp điều trị ung thư não thường được sử dụng cho hầu hết các trường hợp. Để cắt bỏ khối u, bác sĩ phẫu thuật thần kinh phải mở hộp sọ.

Nếu điều kiện thuận lợi, phẫu thuật không làm tổn thương tới các mô não quan trọng, bác sĩ sẽ tiến hành cắt bỏ toàn bộ khối u. Nếu không thể cắt bỏ hoàn toàn, phần khối u còn sót lại sẽ được điều trị bằng tia xạ hoặc hóa chất.

- Xạ phẫu

Tia xạ trị liệu sử dụng các tia có năng lượng cao để tiêu diệt tế bào ung thư và ngăn không cho chúng phát triển trở lại. Phương pháp này thường được sử dụng để tiêu diệt phần mô ung thư không cắt bỏ được khi phẫu thuật hoặc để tiêu diệt tế bào ung thư còn sót lại sau khi phẫu thuật.

Ngoài ra, trong trường hợp không thể tiến hành phẫu thuật, bác sỹ thường áp dụng phương pháp điều trị tia xạ nhằm tăng thời gian sống của bệnh nhân và giảm các triệu chứng bệnh.

- Hóa trị

Hóa trị liệu là phương pháp sử dụng thuốc để tiêu diệt tế bào ung thư. Đây là phương pháp điều trị toàn thân ảnh hưởng tới các tế bào ung thư trên toàn bộ cơ thể. Trong hóa trị liệu, một hoặc nhiều thuốc điều trị ung thư não được đưa vào cơ thể bằng cách uống hoặc tiêm vào mạch máu.

Hóa trị liệu thường được điều trị theo đợt. Sau mỗi đợt điều trị bệnh nhân lại có một khoảng thời gian nghỉ hồi sức, sau đó lại tiếp tục điều trị hóa chất. Tuỳ thuộc vào loại thuốc điều trị và tình trạng sức khỏe, bệnh nhân có thể lựa chọn điều trị ngoại trú hoặc nội trú.


Tác giả: Hai Yen